Bài làm
I, Mở bài
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời,
là một mốc son lịch sử đánh dấu bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam, đưa cuộc
đấu tranh của dân tộc vào thời kỳ phát triển mới. Từ đó đến nay đã hơn 80 năm
phát triển có thể khẳng định Đảng cộng sản Việt Nam trở thành nhân tố quyết định
hàng đầu đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Chính vì thế em đã chọn đề tài
phân tích vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam đối với thực tiễn đất nước.
II, Nội dung vấn đề
1, Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng cộng sản Việt Nam
ra đời
Từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX thực dân Pháp tiến
hành xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn đã từng bước đầu hàng, nước ta
chìm dưới ách thống trị của chủ nghĩa Thực dân Pháp và chế độ phong kiến lạc hậu
Dân tộc ta vốn có truyền thống nồng nàn yêu nước, chính vì thế khi có bóng dáng
ngoại xâm đã có hàng loạt những tổ chức chính trị, đảng phái tập hợp và lãnh đạo
những phong trào yêu nước của quần chúng nhân dân. Các phong trào đã đấu tranh
chống lại thực dân Pháp, địa chủ phong kiến và để lại nhiều trang sử vẻ vang,
nhiều tấm gương anh dũng để thôi thúc tinh thần yêu nước của nhân dân. Chúng ta
có thể kể đến phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ Cần Vương của các sĩ phu yêu nước
lãnh đạo, các phong trào theo khuynh hướng dân chủ tư sản như phong trào Đông
Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang phục hội… Song tất cả đều tỏ
ra lỗi thời, bất lực và bế tắc trước nhiệm vụ lịch sử, giống như đêm tối không
có đường ra. Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự thất bại trên là do hạn chế về mặt
ý thức hệ nên những tổ chức ấy không đề ra được đường lối và phương pháp cách mạng
đúng đắn; không tập hợp và phát huy được lực lượng to lớn của dân tộc; không có
khả năng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và gắn cách mạng Việt Nam với cách
mạng thế giới. Yêu cầu lịch sử lúc bấy giờ là phải có một chính đảng thống nhất
để lãnh đạo cách mạng, tập hợp quần chúng đứng chung dưới một ngọn cờ và liên lạc
với cách mạng Thế giới.
2, Cách mạng Việt Nam từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra
đời
2.1, Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Theo như Hồ Chí Minh: “ Chủ nghĩa Mác – lênin kết hợp
với phong trào yêu nước và phong trào công nhân đã dẫn tới việc thành lập Đảng
cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930” (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002). Đúng như Người đã nói, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời
là sự kết hợp giữa phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân với phong trào của
các tầng lớp nhân dân yêu nước khác, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam trong hành động cách mạng. Nói đến sự ra đời của Đảng cộng
sản Việt Nam không thể không nhắc tới công lao to lớn của Hồ Chí Minh, Người đã
chuẩn bị mọi mặt về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự ra đời của một chính đảng
vô sản đầu tiên ở Việt Nam. Cuối năm 1929 đầu năm 1930 trong nước xuất hiện 3 tổ
chức cộng sản hoạt động riêng rẽ, bằng sự nhạy cảm về chính trị Nguyễn Ái Quốc-
Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội nghị thống nhất ba tổ chức cộng sản thành Đảng cộng
sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930 tại Hương Cảng, Trung Quốc.
Như Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng cộng sản Việt Nam
là chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, có khả năng đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác đứng lên làm cách mạng.
Bao giờ Đảng cũng “ tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”, “ trung
thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp, của nhân dân và của dân tộc”, “ ngoài
lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không còn lợi ích gì
khác”. Với mục đích lý tưởng cao đẹp, từ khi ra đời Đảng cộng sản Việt Nam đã
được trang bị lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin và được xây
dựng theo những nguyên tắc Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Vì thế Đảng đã có
đủ khả năng phân tích đúng đắng những đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội, các
giai cấp, tầng lớp… từ đó khắc phục được những hạn chế của cách mạng Việt Nam
khi Đảng cộng sản Việt Nam chưa ra đời. Nói cách khác Đảng có đủ khả năng để đề
ra đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, đoàn kết, tập hợp, lôi kéo các
tầng lớp nhân dân đứng lên làm cách mạng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và
gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng Thế giới. Và cũng từ đây lần đầu tiên
trong lịch sử dân tộc, Đảng đã tìm thấy những người bạn quốc tế cho dân tộc ta
trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do.
2.2, Vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam từ khi ra đời
đến trước thời kì Đổi mới
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát thực tiễn cách mạng,
phân tích sâu sắc thời cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu
trong mỗi thời kỳ, xác định đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng.
Đầu thế kỷ XX, Việt Nam là một nước thuộc địa, nửa phong kiến, chính sách
áp bức, bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp đã làm tích tụ những mâu
thuẫn gay gắt giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa thực dân và bè lũ
tay sai. Những mâu thuẫn đó chỉ có thể được giải quyết bằng con đường cách mạng
bạo lực. Ngay từ ngày đầu thành lập, Đảng ta đã xác định rõ mối quan hệ khăng
khít giữa các nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc, dân
chủ gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong Chánh cương vắn tắt, Đảng ta đã xác định
rõ "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản".
Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua
những chặng đường đấu tranh oanh liệt và thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại
độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công,
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời (2/9/1945) mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc
Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vận mệnh của Đảng gắn
liền với vận mệnh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc.
Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng nhân dân là nguồn gốc sức mạnh và
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng
luôn nhạy bén, bám sát tình hình thời cuộc để xác định đúng đắn nhiệm vụ,
phương pháp cách mạng phù hợp đưa đất nước tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn.
Ngay sau ngày giành được độc lập (02/9/1945), Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khẩn trương lãnh đạo nhân dân cả nước bắt tay vào thực
hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gắn xây dựng với bảo vệ chính quyền cách
mạng; trong đó trọng tâm là xây dựng, lấy xây dựng làm điều kiện cho bảo vệ.
Trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược, Trung ương Đảng, Bác
Hồ đã đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo - "Toàn dân, toàn
diện, trường kỳ, tự lực gánh sinh", kháng chiến đi đôi với kiến quốc.
Qua đó, làm chuyển hoá thế trận, thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách
mạng, từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Sau năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng
miền Nam vẫn tạm thời bị Mỹ, ngụy chiếm đóng. Trên cơ sở phân tích tình hình,
nhận thức rõ những mâu thuẫn khác nhau ở mỗi miền Nam, Bắc, Đảng và Hồ Chí Minh
đã xác định đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là vừa tích
cực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành triệt để cách mạng giải
phóng dân tộc ở miền Nam, hoàn thành mục tiêu giải phóng dân tộc trong cả nước,
đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam với
những Đảng viên ưu tú, nhiệt thành quân và dân ta đã làm nên đại thắng mùa Xuân
1975, đất nước thống nhất Nam Bắc sum họp một nhà tiếp tục sự nghiệp xây dựng
Chủ nghĩa xã hội.
2.3, Vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong thời kì
Đổi mới
Đất nước hòa bình, những nhiệm vụ mới, thời cơ và
thách thức mới trong thời kì Đổi mới, công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước,
vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam càng được khẳng định. Sự nghiệp đổi
mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn
biến phức tạp, đất nước chồng chất khó khăn càng làm nổi bật những thành tựu đạt
được sau hơn 20 năm đổi mới là rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử, khẳng định lý
tưởng cộng sản cao đẹp, sức sống bền vững của chủ nghĩa xã hội hiện thực và tầm
nhìn chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo đề ra chủ
trương chính sách có khi Đảng ta vấp phải sai lầm, song điều quan trọng là Đảng
đã dũng cảm "nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật", kiên quyết sửa
chữa, kịp thời tổng kết rút ra những bài học từ những thành công và cả những
sai lầm, thất bại, kiên trì sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Ngay từ đầu, Đảng đã xác định rõ Đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới
chính trị làm cơ sở cho sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, quyết tâm xây dựng
một xã hội "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì
dân, phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn lịch
sử đã chứng minh vai trò to lớn của Đảng trong thời đại mới. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, qua hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã giành được những thắng lợi to lớn
và có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục phát triển.
Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội (1996); vượt qua khủng hoảng
tài chính tiền tệ khu vực (1997-1998); khắc phục có hiệu quả ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay; thực hiện các Kết luận
của Bộ Chính trị, nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, bước đầu thực hiện được
mục tiêu: kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy
trì tăng trưởng ở mức hợp lý; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân
đầu người năm 2008 đạt trên 1000 USD, vượt qua ngưỡng nước nghèo chậm phát triển.
Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.
Chính trị, xã hội ổn định, an ninh, quốc phòng được giữ vững. Vai trò và vị thế
của nước ta trên trường quốc tế ngày càng nâng cao.
Nói tóm lại hơn tám mươi năm qua là chặng đường đấu tranh oanh liệt và
thắng lợi vẻ vang của Ðảng ta, dân tộc ta. Một trong những nhân tố cơ bản quyết
định đạt được thắng lợi vẻ vang đó là do Ðảng ta đã giữ vững và phát huy bản chất
cách mạng, giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng trước mọi khó khăn, thách thức.
Ngay từ khi mới ra đời, Ðảng ta đã khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Ðảng,
khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là nền tảng
tư tưởng của Ðảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Ðảng luôn giữ vững, phát
huy vai trò tiên phong và bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, trung
thành với lợi ích của giai cấp và dân tộc; trung thành, vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với thực tế đất nước, đặc điểm mới của
thời đại. Sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với những
khó khăn, thách thức đi liền với thời cơ lớn đòi hỏi Ðảng phải giữ vững và phát
huy bản chất cách mạng của Ðảng trong tình hình mới. Ðảng ta phải xây dựng các
tổ chức Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
cao; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh vững vàng, tuyệt đối trung
thành với lý tưởng của Ðảng, với Tổ quốc và nhân dân; có trí tuệ, phẩm chất đạo
đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ, gắn
bó mật thiết với nhân dân, toàn tâm toàn ý phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
III, Kết bài
Hồ Chí Minh đã từng nói: “ Đảng ta là một Đảng cách mạng,
một Đảng vì dân vì nước”. Lời nói của Người và những tư tưởng của Người về Đảng
cộng sản sẽ mãi là ngọn đuốc soi đường cho Đảng ta làm tốt vai trò lãnh đạo của
mình trong suốt quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, tích cực hội
nhập với Thế giới. Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi
cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam ở trong nước và nước ngoài càng thấy
rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày càng trong
sạch, vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu:
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, vững bước tiến lên
CNXH.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét