Đề bài số 4
Bắc,
Chủ, Dân, Luyền và Ngọc cùng một số người khác chơi ở nhà chị Hồng. Thấy anh
Ngọc hút thuốc, Bắc hỏi xin một điếu nhưng anh Ngọc nói là không có. Đến khoảng
22h30’, Bắc, Dân, Chủ, Luyền ra về, anh Ngọc vẫn ở lại. Khi đến ngã ba cách nhà
chị Hồng khoảng 200m, bồn người ngồi chơi. Bắc nói “thằng Ngọc hay nói phét,
hay sĩ diện, phải đánh cho nó một trận để cảnh cáo, hôm nay nó về đấy, chúng
mày có đánh không”. Thấy Bắc nói vậy, Dân, Chủ và Luyền can ngăn rồi bỏ đi.
Cùng lúc đó, thấy ánh đèn pin ở nhà chị Hồng ra, đoán là anh Ngọc, Bắc lấy đoạn
cọc tre dài khoảng 60cm, đường kính 4-5cm đầu gốc nhiều mấu, đứng nấp bờ rào
chờ anh Ngọc đến để đánh. Khi anh Ngọc đạp xe đến, Bắc chạy ra chặn đầu xe,
đồng thời dùng hai tay cầm đoạn tre vụt một nhát vào vùng đầu phía trái làm anh
Ngọc ngã xuống đường. Anh Ngọc được đưa đi cấp cứu nhưng do vết thương nặng,
đến 2h00 sáng ngày 03.08.2000 thì chết. Theo kết quả giám định pháp y, anh Ngọc
bị vật cứng tác động vào vùng trái đầu gây tổn thương vỡ dập xương sọ dẫn đến
chết.
HỎI:
1. Hãy
định tội danh đối với Bắc (2 điểm)
2. Anh
(chị) hãy xác định các tình tiết tăng nặng định khung và các tình tiết tăng
nặng khác (2 điểm)
3. Giả
sử Bắc vừa chấp hành bản án 7 năm tù về tội Trộm cắp tài sản thì Bắc được coi
là phạm tội với tình tiết “tái phạm” hay “tái phạm nguy hiểm” (2 điểm)
4. Giả
sử Ngọc không chết mà chỉ bị thương tích 61% thì tội danh của Bắc được xác định
như thế nào (1 điểm).
Lời mở đầu:
Tính mạng, sức khỏe là vốn quý của con người, là nhân
tố đảm bảo cho sự tồn tại của mỗi người. Hành vi giết người từ đông, tây, kim,
cổ đều bị coi là dã man tàn ác, nó không những gây đau thương tang tóc cho gia
đình nạn nhân, phá vỡ tế bào của xã hội mà còn gây mất trật tự trị an ở địa
phương, tạo nên tâm lý hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân. Do đó BLHS
năm 1999 đã quy định khá cụ thể về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con
người để bảo vệ cuộc sống của xã hội. Sau đây, chúng ta hãy cùng tìm hiểu vụ án
số 6 để hiểu rõ hơn về tội danh trên.
Nội dung:
1.
Bắc phạm tội giết người theo điều 93 BLHS.
Bởi
vì: Hành vi phạm tội của Bắc có đầy đủ
dấu hiệu pháp lý của tội giết người. Cụ thể:
* Mặt khách quan của tội
phạm:
– Hành
vi khách quan của tội phạm
Hành
vi khách quan của tội giết người là hành vi tước đoạt trái pháp luật
tính mạng của người khác.
Hành
vi tước đoạt tính mạng người khác được hiểu là hành vi có khả năng
gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống của họ. Những hành vi
không có khả năng này không thể là hành vi khách quan của tội giết
người. Hành vi khách quan của tội giết người cũng còn có thể là không
hành động. Đó là những trường hợp chủ thể có nghĩa vụ phải hành
động, phải làm những việc nhất định để đảm bảo sự an toàn về tính
mạng của người khác nhưng họ đã không hành động, không thực hiện những
việc làm đó. Không hành động của họ trong những trường hợp này cũng
có khả năng gây ra cái chết cho người khác.
Đối
tượng của hành vi tước đoạt tính mạng chỉ có thể là con người đang
sống.
Ở
trong tình huống đề bài đưa ra:
Bắc
lấy đoạn cọc tre dài khoảng 60cm, đường kính 4-5cm đầu gốc nhiều
mấu…dùng 2 tay cầm đoạn tre vụt một nhát vào vùng đầu phía trái
của anh Ngọc.
Hành
vi dùng cọc tre đánh vào vùng đầu của Bắc có khả năng gây ra cái
chết cho anh Ngọc. Hành vi của Bắc gây ra cũng là trái với pháp
luật.
– Hậu quả
của tội phạm:
Hậu
quả được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP tội giết người là
hậu quả chết người. Tội giết người chỉ được coi là tội phạm hoàn
thành khi có hậu quả chết người. Nếu hậu quả chết người không xảy ra
vì nguyên nhân khách quan thì hành vi phạm tội bị coi là tội giết
người chưa đạt hoặc là tội cố ý gây thương tích, tùy thuộc vào lỗi
của người phạm tội.
Trong
tình huống trên thì
có hậu quả chết người đã xảy
ra đối với anh Ngọc theo giám định pháp ý anh
Ngọc bị vật cứng tác động vào vùng trái đầu gây tổn thương vỡ dập xương sọ dẫn
đến chết.
– QHNQ
giữa hành vi khách quan và hậu quả chết người
Người
có hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác chỉ phải
chịu TNHS về hậu quả chết người đã xảy ra nếu hành vi họ đã thực
hiện là nguyên nhân của hậu quả chết người đã xảy ra đó.
Trong tình huống thì hành vi Bắc dùng cọc tre vụt một nhát vào vùng
đầu phía trái là nguyên nhân gây ra cái chết cho anh Ngọc. Như vậy,
giữa hành vi của Bắc và hậu quả chết người của anh Ngọc có mối quan
hệ nhân quả với nhau, Bắc phải TNHS về hậu quả chết người của anh
Ngọc.
* Mặt chủ quan của tội phạm:
Lỗi
của người phạm tội
Lỗi
của người phạm tội là lỗi cố ý. Lỗi cố ý ở đây có thể là lỗi cố
ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp.
+ Lỗi cố ý trực tiếp:
người phạm tội thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra (hoặc
tất nhiên xảy ra) nhưng vì mong muốn hậu quả đó nên đã thực hiện
hành vi phạm tội.
+ Lỗi cố ý gián tiếp:
người phạm tội nhận thức hành vi của mình có khả năng gây nguy hiểm
đến tính mạng người khác, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy
ra những để đạt được mục đích của mình người phạm tội có ý thức để
mặc cho hậu quả xảy ra hay nói cách khác, họ có ý thức chấp nhận
hậu quả đó.
Trong
tình huống thì lỗi của Bắc là cố ý gián tiếp:
Vì : +
Sau khi bốn người là Bắc, Dân, Chủ, Luyền ra về thì Bắc nói với ba
người còn lại là: “thằng Ngọc hay nói phét, hay sĩ diện, phải
đánh cho nó một trận để cảnh cáo, hôm nay nó về đấy, chúng mày có
đánh không”. Như vậy là Bắc đã cố ý muốn đánh anh Ngọc, mục đích của Bắc là đánh Ngọc để cảnh cáo Ngọc, chứ
hoàn toàn không mong muốn cho Ngọc chết.
+
Dân, Chủ, Luyền đã can ngăn mà Bắc vẫn thực hiện hành vi đánh anh
Ngọc như vậy hành vi của Bắc là cố ý
+
Bắc đã dùng cọc tre dài khoảng 60cm, đường kính 4-5cm đầu gốc nhiều
mấu, đứng nấp bờ rào chờ anh Ngọc đến đánh…Hành vi này thể là Bắc
đã có sự chuẩn bị cho hành vi phạm tội của mình
+
Việc Bắc dùng hai tay cầm đoạn tre vụt một nhát vào vùng đầu phía
trái khiến anh Ngọc ngã xuống đường và sau đó chết khi đi cấp cứu.
Hành vi của Bắc cho thấy là Bắc đã nhận thức việc đánh vào đầu anh
Ngọc là nguy hiểm, có khả năng gây ra chết người cho anh Ngọc nhưng Bắc
vẫn thực hiện và có ý thức chấp nhận hậu quả…
Như vậy, từ các dấu hiệu pháp lý trên thì tội danh của Bắc là
tội giết người theo điều 93 BLHS.
2. Xác định các tình tiết tăng
nặng định khung và các tình tiết tăng nặng khác
Tình tiết tăng nặng
định khung:
Các tình tiết định khung là những tình tiết làm tăng nặng hoặc giảm nhẹ một mức
độ đáng kể tính chất nguy hiểm của một loại tội. Khi chúng xảy ra ở một loại
tội nào đó làm cho tính chất nguy hiểm của loại tội thay đổi hẳn(hoặc nặng
thêm, hoặc nhẹ đi) dựa vào đó mà nhà làm luật ghi thành một cấu thành khác, với
một khung hình phạt riêng.
Tình tiết tăng nặng khác
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết được quy định trong Bộ
luật hình sự với tính chất là tình tiết tăng nặng chung và là một trong những
căn cứ để Tòa án quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo hướng nghiêm
khắc hơn trong phạm vi một khung hình phạt nếu trong vụ án hình sự có tình tiết
này.
Xét
trong tình huống của bài:
-Tình
tiết tăng
nặng định khung trong tình huống này là: phạm tội có tính chất côn đồ.
Theo
đề bài, Bắc đã nói “thằng Ngọc hay nói phét, hay sĩ diện, phải đánh cho nó một trận để cảnh
cáo, hôm nay nó về đấy, chúng mày có đánh không”. Đây là chi tiết khởi đầu để có thể
khẳng định hành vi phạm tội của Bắc có tính hung
hãn cao độ. Trong tình huống này, anh Ngọc chỉ từ chối việc cho Bắc một điếu
thuốc, không có tính chất gây hấn với hung thủ, vậy mà chỉ vì chuyện này mà Bắc
sẵn sàng “đánh cho anh Ngọc một trận để cảnh cáo”. Và hành vi
tiếp theo của Bắc chạy ra chặn đầu xe, đồng thời
dung hai tay cầm đoạn tre vụt một nhát vào vùng đầu phía trái làm anh Ngọc ngã
xuống đường”.
Ở đây, Bắc đã đánh anh Ngọc không phải vào lưng, tay, chân… mà là đầu, một
trong những bộ phân có thể tai nạn nguy hiểm cho người. Và chính vì việc đánh
vào đầu anh Ngọc của hung thủ đã dẫn đến việc anh Ngọc bị tử vong do “vật
cứng tác động vào vùng trái đầu gây tổn thương vỡ dập xương sọ dẫn đến chết”. Hành
vi này cho thấy hung thủ là người có tính hung hăng cao độ, coi thường tính
mạng của người khác, sẵn sàng đánh, giết người khác vì những nguyên cớ nhỏ
nhặt.
-Tình tiết tăng nặng khác: cố tình thực hiện tội phạm đến cùng.
Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng -
quy định tại điểm e khoản 1 Điều 48 BLHS. Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng được hiểu là quyết tâm thực hiện
bằng được ý định phạm tội và hành vi phạm tội, mặc dù có sự can ngăn của người
khác hoặc có những trở ngại khác trong quá trình thực hiện tội phạm. Trong vụ án này, khi tên Bắc có ý định phạm
tội đối với anh Ngọc và rủ rê những tên khác, 3 người là Dân, Chủ và Luyền đã
có lời can ngăn sau đó bỏ đi nhưng tên Bắc vẫn không nghe mà một mình thực hiện
hành vi phạm tội. có nghĩa là hắn đã quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng mặc
dù đã có người khác can ngăn, như vậy, ý định phạm tội của hắn đã thể hiện rõ.
Với tình tiết cố tình thực hiện tội phạm đến cùng, tên Bắc sẽ phải chịu tăng
nặng trách nhiệm hình sự vì những hành vi của mình.
Từ những điều đã
phân tích trên,
có thể thấy hành vi của Bắc là hành vi giết người, và có tình tiết định khung tăng nặng theo quy
định tại điều 93, khoản 1, điểm n. Trong trường hợp này, tính tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự “có tính chất côn đồ” là tình tiết được luật quy định với
tính chất là yếu tố định khung hình phạt đối với một tội giết người, làm thay
đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi và là căn cứ cho phép Tòa án tăng mức hình phạt đối với Bắc, chuyển
khung hình phạt từ khoản 2 Điều 93 sang khoản 1 Điều 93. Vì vậy, theo quy định
tại Khoản 2, Điều 48 BLHS 1999 thì tính tiết thực hiện tội phạm có tính chất
côn đồ của Bắc đã là tình tiết định khung hình phạt thì không còn tính là tình
tiết tăng nặng theo Khoản 1, Điều 48 nữa. Trong tình huống
này, tình tiết tăng nặng TNHS khác của Bắc là cố tình thực hiện tội phạm đến cùng.
3. Giả sử Bắc vừa chấp
hành bản án 7 năm tù về tội Trộm cắp tài sản thì Bắc được coi là phạm tội với
tình tiết “tái phạm” hay “tái phạm nguy hiểm”.
Theo như phân tích ở phần 1 thì Bắc phạm tội Giết người theo điều 93 BLHS với
lỗi cố ý. Mà như đã phân tích ở phần 2 thì hành vi của Bắc có tích chất
côn đồ. Do vậy Bắc sẽ bị xử theo điểm n, khoản 1 điều 93: giết người “có
tính chất côn đồ”. Và mức hình phạt mà Bắc có thể phải chịu là “từ
mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình”
Theo khoản 3
Điều 8 BLHS về phân loại tội phạm thì: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy
hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là
đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà
mức cao nhất là của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm
rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc
tử hình”.
Vì
vậy, kết hợp với khoản 3 Điều 8 BLHS, ta xác định được tội phạm mà Bắc thực
hiện là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Theo
đề bài, Bắc vừa chấp hành bản án 7 năm tù về tội trộm cắp tài sản. Mức án 7 năm
tù ở đây là mức án mà tòa tuyên đối với Bắc về tội trộm cắp tài sản. Mà để phân
loại tội phạm thì ta dựa vào mức cao nhất của khung hình phạt đối với loại tội
ấy chứ không thể dựa vào mức án toàn đã tuyên. Như vậy, bản án 7 năm tù của Bắc
với tội trộm cắp tài sản có thể là tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc
biệt nghiêm trọng.
Ta
xét điều 138 BLHS về tội trộm cắp tài sản. Lỗi ở đây luôn là lỗi cố ý. Bản án
bảy năm của Bắc có thể nằm trong khoản 2 hoặc khoản 3, 4 của điều 138. Nếu như
Bắc phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 điều 138 với mức cao nhất của khung
hình phạt là “bảy năm tù” thì Bắc phạm tội nghiêm trọng. Nếu phạm
tội theo khoản 3 điều 138 với mức cao nhất của khung hình phạt là “ mười lăm
năm” thì Bắc phạm tội rất nghiêm trọng. Nếu phạm tội theo khoản 4
điều 138 với mức cao nhất của khung hình phạt là “hai mươi mươi năm hoặc tù
chung thân” thì Bắc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng ( Phạm tội theo
khoản 3 hoặc khoản 4 thì mức án đã được giảm nhẹ).
Điều 49 BLHS quy định:
“1.
Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do
cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
2.
Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a,
Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa
được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do
cố ý;
b,
Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý”.
Ở
đây, xảy ra 2 trường hợp:
Trường
hợp thứ nhất: Nếu mức án 7 năm tù thuộc quy định tại khoản
2 Điều 138 BLHS về tội trộm cắp tài sản thì tội phạm mà Bắc thực hiện có tình
tiết “tái phạm”. Bởi vì, Bắc vừa chấp hành bản án 7 năm tù, chưa được
xóa án tích lại phạm tội do cố ý (như đã phân tích ở phần 1) nên thỏa mãn khoản
1 Điều 49 BLHS. Do đó, tội phạm Bắc thực hiện có tình tiết “tái phạm”.
Trường
hợp thứ hai: Nếu mức án 7 năm tù thuộc quy định tại
khoản 3 Điều 138 BLHS hoặc khoản 4 Điều 138 BLHS (đã được giảm nhẹ) thì tội
phạm mà Bắc thực hiện có tình tiết “tái phạm nguy hiểm”. Bởi vì, nếu tội
phạm của Bắc bị xét xử theo khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 138 BLHS thì tội phạm mà
Bắc thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng (khoản 3) hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng (khoản 4). Mặt khác, tội trộm cắp tài sản lại là tội thực hiện do
lỗi cố ý. Hơn nữa, Bắc chưa được xóa án tích mà lại phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng do cố ý (như đã phân tích ở trên). Do các yếu tố trên đều thỏa mãn khoản
2 Điều 49 BLHS nên tội phạm mà Bắc thực hiện có tình tiết “tái phạm nguy
hiểm”.
4.
Giả sử Ngọc không chết mà chỉ bị thương tích 61% thì tội danh của Bắc được xác
định là tội : cố ý gây thương tích.
Vì trong trường hợp này, hành vi và hậu quả của Bắc có đầy đủ dấu hiệu pháp lí
của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác theo quy
định tại Điều 104 BLHS. Hành vi mà Bắc thực hiện trong trường hợp trên đã
gây ra thương tích cho anh Ngọc, hành vi đó được thực hiện qua công cụ là đoạn cọc tre dài khoảng 60cm, đường kính
4-5cm đầu gốc nhiều mấu, hậu quả để lại là làm cho anh Ngọc bị thương tích
61%. Xét về yếu tố lỗi trong trường hợp này, lỗi mà Bắc gây ra trong
trường hợp này là lỗi cố ý trực tiếp. Lỗi là trạng thái tâm lí chủ quan
của con người đôi với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả
do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Trong tình
huống này, Bắc hoàn toàn nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Về mặt lí trí: Bắc nhận thức rõ tính chất nguy hiểm là gây
thiệt hại về sức khỏe cho Ngọc thông qua hành vi của mình và hoàn toàn thấy
trước hậu quả của hành vi này là gây ra thương tích cho Ngọc.
Về mặt ý chí: Bắc mong muốn hậu quả phát sinh và hậu quả của
hành vi mà Bắc thực hiện hoàn toàn phù hợp với mục đích, mong muốn của Bắc.
Mong muốn của Bắc là gây thương tích cho Ngọc để cảnh cáo Ngọc.
Có quan điểm cho rằng Ngọc không chết mà chỉ bị thương tích 61% thì Bắc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người chưa đạt. Chúng em không đồng ý với
quan điểm này. Vì Bắc không mong muốn cái chết xảy ra với anh Ngọc (theo phân
tích ở phần 1) nên trách nhiệm hình sự đối với tội giết người chưa đạt không
thể được đặt ra.
KẾT LUẬN
Tội
phạm giết người vẫn đang diễn ra ở khắp nơi và liên tục ở nước ta, đe dọa sự
bình yên của xã hội. Do đó, đấu tranh phòng ngừa tội giết người là một việc làm
hết sức cần thiết ở nước ta hiện nay, là nhiệm vụ hết sức quan trọng của chế độ
ta.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Trường Đại học Luật Hà Nội Tập 1. Nhà Xb CAND 2007.
2. Giáo trình luật hình sự Việt Nam , Trường đại học Luật Hà Nội, Tập thể tác giả do PGS.TS. Nguyễn
Ngọc Hoà chủ biên, NXB Công an Nhân.
3. Bình luận khoa học BLHS Việt Nam (bình luận chuyên sâu), Đinh
Văn Quế, Nxb. TPHCM, 2004 - 2006
4. Bộ luật hình sự năm 1999 –
được sửa đổi, bổ xung năm 2009.
5. Bộ luật Hình sự
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1999.
6. Tạp
chí Luật học số 2/2003.
7. Tạp chí luật học
số 4/2002.
các cụm từ chuyên
môn viết tắt:
TNHS: trách nhiệm hình
sự
BLHS: bộ luật hình sự
QHNQ: quan hệ nhân quả
CTTP:
cấu thành tội phạm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét