Hành
vi trái pháp luật, có lỗi của người gây thiệt hại sẽ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Thiệt hại xảy ra có thể là kết quả của một hành vi gây thiệt
hại nhưng cũng có thể là kết quả của nhiều hành vi gây thiệt hại. Khi nhiều
người cùng gây thiệt hại thì về nguyên tắc, mỗi người phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại tương ứng với mức độ của hành vi gây thiệt hại. Để hiểu rõ hơn
về vấn đề bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra nên em đã chọn đề tài
“xây dựng một tình huống bồi thường thiệt
hại do nhiều người cùng gây ra. Phân tích các mối quan hệ pháp luật trong tình
huống đó. Xác định mức độ và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhiều người
cùng gây ra?” cho bài tiểu luận của mình.
Tình
huống:
A,
B và C cùng là con nghiện, do thiếu tiền tiêm chích nên A, B và C đã bàn bạc, thống
nhất với nhau thực hiện việc trộm cắp tài sản của nhà anh H do thường ngày
chúng để ý thấy anh A thường đi làm về lúc đêm đã khuya. Theo đó, chúng phân
công nhau, A sẽ làm nhiệm vụ canh gác bên ngoài để B và C phá khóa vào nhà anh
H để lấy tài sản. B và C vào nhà lục tìm tiền mặt và bọn chúng đã lấy được tổng
cộng là 15 triệu đồng tiền mặt. Lấy xong tài sản bọn chúng đi ra khỏi khu vực
nhà anh H và dùng số tiền đã chiếm đoạt được để tiêm chích và ăn tiêu.
Sau
khi A, B và C đi khỏi một thời gian thì M đi qua thấy cổng và cửa nhà anh H đều
mở toang nên đã lẻn vào lấy đi một số tài sản với giá trị khoảng 5 triệu đồng.
Vụ
án sau đó bị phát hiện. A, B, C và M đều bị tòa kết án về tội trộm cắp tài sản
theo quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự.
Tại
phiên tòa với tư cách là người bị hại, anh H yêu cầu A, B, C và M bồi thường
cho mình số tài sản đã bị thiệt hại.
Trong
tình huống trên, ta thấy:
Người gây ra thiệt hại trong tình huống này là A, B, C và
M.
Người bị thiệt hại
là anh H.
Anh H bị A, B, C và M trộm cắp tài sản, với tổng thiệt hại
là 20 triệu đồng. anh H yêu cầu 4 người này phải bồi thường cho mình số tài sản
đã bị thiệt hại.
Trong
trường hợp này anh H có quyền yêu cầu anh M bồi thường cho mình số tài sản
tương ứng với số tài sản mà anh M đã trộm cắp của anh. Và có quyền yêu cầu một
trong ba người là A, B, C phải bồi thường cho mình toàn bộ số tài sản đã bị
thiệt hại do hành vi trộm cắp của A, B và C.
Anh
M có nghĩa vụ phải bồi thường cho anh H số tài sản mà mình đã lấy cắp theo yêu
cầu của anh H.
Một
trong ba người hoặc A hoặc B hoặc C nếu được anh H yêu cầu phải bồi thường toàn
bộ thiệt hại thì có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại theo yêu cầu của
anh H, sau đó, có quyền yêu cầu hai người còn lại bồi hoàn cho mình số tiền mà
mình đã thực hiện nghĩa vụ trước đó. Vì trong trường hợp này A, B và C có trách
niệm liên đới bồi thường thiệt hại.
Mức
độ và trách nhiệm bồi thường.
Theo
quy định tại Điều 616 Bộ luật dân sự thì: “Trong
trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi
thường cho người bị thiệt hại. trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây
ra thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không
xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau”.
Trong
tình huống này thì hành vi của anh M độc lập với hành vi của A, B và C nên anh
M chỉ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình mà không có bất cứ nghĩa vụ gì
đối với nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của A, B và C.
A,
B và C có sự thống nhất, bàn bạc với nhau về hành vi trộm cắp. tức là ba người
này cùng gây thiệt hại, hành vi của người này tương hỗ cho người kia để cùng
gây ra một hậu quả chung đó là thiệt hại về tài sản cho anh H.
Trong
trường hợp này, cả A, B và C đều có lỗi (cố ý) trong việc gây ra thiệt hại, mỗi
người phải bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình. Có thể nhận
thấy trong tình huống này, B và C là người trực tiếp lấy tài sản và A đóng vai
trò là người giúp sức. khó có thể xác định được mức độ lỗi của ai cao hơn vì
thực chất giữa ba người này đều đã có sự bàn bạc, thống nhất với nhau về vai
trò của từng người. Do đó, cả A, B và C đều phải bồi thường với mức bồi thường
là như nhau. Cụ thể là 15: 3 = 5 triệu đồng/ 1 người.
Bồi thương
thiệt hại ngoài hợp đồng có một ý nghĩa quan trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của chủ thể có quyền lợi bị xâm hại và nhằm răn đe, phòng ngừa đối với
những người có hành vi gây thiệt hại. Trong bồi thường thiệt hại do nhiều người
cùng gây ra thì việc xác định trách nhiệm và mức độ bồi thường là cần thiết,
đảm bảo quyền lợi cho cả những người gây thiệt hại và người bị thiệt hại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam , tập 2,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2006;
2. Lê Đình Nghị
(chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam , tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội,
2009;
3. Bộ luật dân
sự năm 2005.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét