MỞ ĐẦU
Sự kiện sinh con của người phụ nữ làm
phát sinh mỗi quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con. Đó là mỗi quan hệ huyết
thống tự nhiên theo quy luật sinh học. Việc xác định cha, mẹ cho con là cần
thiết nhằm xác định rõ chủ thể của quyền giữa cha, mẹ và con. Tuy nhiên có
những mỗi quan hệ giữa cha, mẹ và con được xác lập không phải là theo quan hệ
huyết thống, đó là mỗi quan hệ giữa cha, mẹ và con nuôi. Khi mỗi quan hệ này
được xác lập thì cũng có quyền và nghĩa vụ như con để. Nuôi con nuôi là việc
xác lập mỗi quan hệ giữa cha, mẹ và con, giữa người nhận nuôi và người được
nhận làm con nuôi. Trước đây pháp luật phong kiến Việt Nam quy định
chế định nuôi con nuôi chỉ xuất phát từ lợi ích của người nhận nuôi. Hiện nay
chế định nuôi con nuôi được quy định tại Luật hôn nhân và gia đình Nhà nước ta
từ năm 1959 đến nay xuát phát đầu tiên là từ lợi ích của người được nhận làm
con nuôi, việc nuôi con nuôi nhằm chăm sóc, giáo dục trẻ em. Tuy nhiên mục đích
nuôi con nuôi là xuất phát từ lợi ích của người được nhận nuôi làm con nhưng
quyền làm cha, mẹ cũng phải được đảm bảo, đặc biệt là quyền làm mẹ, để người
phụ nữ có thể chăm sóc, giáo dục con cái của mình một cách tốt nhất và bảo dảm
cho người phụ nữ được hưởng các quyền của cha, mẹ đối với con và con nuôi.
Trong thực tế vấn đề này còn rất nhiều bất cấp mà Luật hôn nhân và gia đình
chưa thể điều chỉnh vì các mỗi quan hệ trong vấn đề này rất đa dạng, phức tạp
luôn luôn thay đổi mà khả năng nhận thức của con người là có giới hạn. Để có
cái nhìn chính xác, nhũng vấn đề về nuôi con nuôi chúng ta sẽ đi tìm hiểu
chuyên đề ( Đảm bảo quyền làm mẹ trong việc nuôi con nuôi ).
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I- CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÁC LẬP MỖI
QUAN HỆ GIŨA CHA, MẸ VÀ CON, NGƯỜI NHẬN NUÔI VÀ NGƯỜI ĐƯỢC NHẬN LÀM CON NUÔI.
Việc nhận nuôi con nuôi hợp pháp phải
tuân thủ các thủ tục của việc nhận con nuôi nhu: mục đích, các điều kiện để
được nhận con nuôi hợp pháp theo những quy định của luật hôn nhận và gia đình.
1. Mục đích, ý nghĩa của
việc nuôi con nuôi.
Nuôi con nuôi là việc nhận nuôi dưỡng
một đứa trẻ, cũng có trường hợp người được nhận làm con nuôi đã thành niên,
không do họ sinh ra nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ giữa người nhận nuôi và người
được nhận làm con nuôi. Bảo đảm cho người cho người được nhận nuôi được trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức của xã hội. Điều này
được quy định tại điều 67 khoản 1 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Đồng thời
trong những trường hợp đặc biệt, việc nuôi con nuôi cũng nhằm bảo đảm cho người
già, yếu được quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng.
Việc nuôi con nuôi không những nhằm
mục đích bảo đảm về quyền lợi cho trẻ em, người tàn tật, người già yếu cô đơn
mà còn nhằm gắn bó người nuôi và con nuôi trong quan hệ tình cảm cha, mẹ.
Quan tâm đến sự phát triển của trẻ em
đảm bảo quyền lợi của người tàn tật, thương binh, người già yếu cô đơn là trách
nhiệm của Nhà nước, xã hội và của mọi công dân. Nhà nước khuyến khích việc nhận
trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, trẻ bị tàn tật làm con nuôi, quy định tại điều 67
khoản 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Chế định này góp phần làm giảm bớt
gánh nặng cho xã hội, bảo đảm cho trẻ em bị bỏ rơi, trẻ cơ nhỡ, trẻ mồ côi, trẻ
em trong các gia đình đặc biệt khó khăn. . . được chăm sóc, nuôi dưỡng và giao
dục trong môi trường gia đình.
Đối với mục đích và hành vi nuôi con
nuôi để bóc luột sức lao động , xâm phạm tinh dục, mua bán trẻ em hoặn vì những
mục đích trái pháp luật khác điều bị nghiêm cấm, điều này được quy định tại
điều 67 khoản 3 Luật hôn nhân và gia đình.
2. Các điều kiện để việc
nhận nuôi con nuôi hợp pháp
Về phía người được nhận nuôi
làm con nuôi.Theo quy định tại điều 68 khoản 1 Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 thì người được nhận làm con nuôi phải từ mười năm tuổi trở xuống. Căn cứ
vào đặc tính thể chất của lứa tuổi này, các em chưa đủ khả năng tự lập nên cần
được nuôi dưỡng, quan tâm, chăm sóc và giáo dục. Nếu các em ở độ tuổi này không
còn cha mẹ, không xác định được cha, mẹ, cha mẹ rơi vào tình trạng không có khả
năng lao động hoặc mất năng lục hành vi dân sự thì các em có quyền được nhận
làm con nuôi để cha, mẹ nuôi chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các em. Theo quy
định tại điều 1 Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em( 12-8-1991 ) và công ước
quốc tế và quyền trẻ em thì đây là lứa tuổi các em cần được đặc biệt quan tâm
và bảo vệ.
Trong trường hợp đặc biệt
người được nhận làm con nuôi có thể trên mười năm tuổi nếu người đó là thương
binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của
người già yếu, cô đơn theo điều 68 khoản 1 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Người được nhận làm con nuôi chỉ có thể có một người là cha nuôi hoặc một người
là mẹ nuôi hoặc hai người là cha mẹ nuôi nếu hai người là vợ chông của nhau
điều 68 khoản 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Điều kiện về phía người nhân
nuôi co nuôi. Theo quy định tại điều 69 Luật hôn nhận và gia đình năm 2000 thì
người nhận nuôi con nuôi phải có đủ các điều kiện.
Có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ: Theo quy định tại điều 22, 23 của Bộ luật dân sự năm 2005 thì người có
năng lực hành vi dân sự là người thành niên và không bị tòa án tuyên bố mất
năng lực hành vi dân sự hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Hơn con nuôi từ hai mươi
tuổi trở lên: Quy định sự chênh lệch về độ tuổi giữa người nuôi và con nuôi là
phù hợp về sự chênh lệch độ tuổi giữa cha, mẹ phát sinh trên sự kiện sinh đẻ.
Thông thường sau khi kết hôn, vợ chông chung sống và người vợ mang thai sinh
con thì vợ chông hơn con của họ ít nhất là khoảng mười chín đến hai mươi tuôi.
Đồng thời quy định sự chênh lệch về độ tuổi này sẽ bảo đảm cách ứng xử trong
gia đình hợp lẽ sống, truyền thống văn hóa và đặc biệt là cho việc chăm sóc,
nuôi dưỡng và giáo dục con nuôi đạt kết quả.
Có tư cách đao đức tốt: Đây
là yếu tố cần thiết để bảo đảm cho người con nuôi sống trong môi trường gia
đình lành mạnh, bảo dảm cho sự hình thành và phát triển tốt về nhân cách cho
người con nuôi, bảo đảm cho cha, mẹ nuôi là tấm gương sáng phản chiếu tới người
con nuôi, bảo đảm cho việc nuôi con nuôi đạt được mục đích của nó và phù hợp
với ý nghĩa của việc nuôi con nuôi.
Có điều kiện thực tế bảo đảm
việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi: Các điều kiện thực tế
có thể là điều kiện về sức khỏe, điều kiện về thời gian, điều kiện về kinh tế.
. . Người con nuôi chỉ đucợ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục tốt khi người nuôi
có sức khỏe tốt, có đủ thời gain quan tâm, chăm sóc người con nuôi về mọi mặt
và có khả năng về kinh tế.
Không phải là những người bị
hạn chế về một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án
mà chưa được xóa án tích về trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của người khác, ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ,
chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình. Dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp
người chưa thành niên phạm pháp, mua bán, đánh cháo, chiếm đoạt trẻ em. Các tội
xâm phạm tinh dục đối với trẻ em. Có hành vi xúi dục, ép buộc con làm những
việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Quy định này trước hết nhằm bảo đảm
cho người con nuôi được sống trong môi trường lành mạnh, đồng thời cũng tránh
những ảnh hưởng không tốt của cha, mẹ đối với con nuôi, ngăn chặn khả năng xấu
có thể xảy ra đối với người con nuôi do sự lệ thuộc của người con nuôi vào cha,
mẹ nuôi.
Việc nuôi con nuôi phải trên
cơ sở tự nguyện của các bên: Trước hết đó là sự đồng ý của cha, mẹ đẻ hoặc
người giám hộ của người con nuôi chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự. Sự đồng ý đó phải thể hiện bằng văn bản điều 71 khoản 1 Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000.
Sự tự nguyện của người nhận
nuôi con nuôi là một trong những yếu tố quan trọng để việc nuôi con nuôi có giá
trị pháp lý. Theo điều 36 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày mừng 10 tháng 10 năm
1998 quy đinh về thủ tục đang khí nhận nuôi con nuôi chỉ rõ: người xin nhận con
nuôi phải nộp đơn xin nhận nuôi con nuôi, điều này chứng tỏ họ phải hoàn toàn
tự nguyện và mong muốn được nhận con nuôi nên đã bày tỏ ý chí băng đơn xin nhận
nuôi con nuôi. Nếu người nhận nuôi con nuôi đang có vợ hoặc chồng, thì đơn xin
nhận nuôi con nuôi phải có chữ ký của cả vợ chồng. Nếu người được nhận làm con
nuôi đã đủ chín tuổi trở lên phải được sự đồng ý của bản thân người được nhận
làm con nuôi.
Như vậy việc nuôi con nuôi
phải được sự đồng ý của các bên để làm cơ sở cho các bên thực hiện tốt quyền và
nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con phát sinh trong sự kiện nuôi dưỡng này.
Việc nuôi con nuôi phải được
đăng khí tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và ghi vào sổ hộ tịch theo điều 72
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Người nhận con nuôi phải xuất trình cho cơ
quan đăng kí con nuôi( Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nếu
việc nuôi con nuôi co yếu tố nước ngoài ) các giây tờ: Đơn xin nhận con nuôi:
Giấy thỏa thuận về đồng ý cho trẻ em làm con nuôi củ cha, mẹ đẻ hoặc người giam
hộ, cơ sở y tế, cơ sở nuôi dưỡng hoặc người từ chín tuổi trở lên lam con nuôi:
Giây khai sinh của người nhận nuôi con nuôi và của người được nhận làm con
nuôi: chứng minh nhân dân của người nhận con nuôi: sổ hộ khẩu gia đình của các
bên.
Khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ
quan đăng ký nuôi con nuôi tiến hành xác minh, nếu thấy có nghi vấn thì phải
niên yết công khai việc xin nhận con nuôi. Nếu thấy đủ điều kiện của việc nhận
nuôi con nuôi thì cơ quan đăng ký nuôi con nuôi thông báo cho các bên biết về
ngày đăng ký.
Lễ giao nhận con nuôi: Tại
lễ giao nhận con nuôi, bên giao, bên nhận và người được nhận nuôi phải cung có
mặt, bên giao, bên nhận cùng ký tên v giào sổ đăng ký nhận con nuôi và biên bản
giao, nhận con nuôi. Chủ tich Ủy ban nhân dân ký trao mỗi bên một bản chính
quyết định cong nhận nuôi con nuôi và giải thích cho bên nhận con nuôi và con
nuôi về quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi.
Việc nuôi con nuôi phải tuân
thủ đầy đủ các điều kiện trên mới có giá trị pháp lý. Kể từ ngày các bên nhận
quyết định công nhận nuôi con nuôi, giữa người nhận nuôi và con nuôi phát sinh
quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con điều 74 Luật hôn nhân và gia đình năm
2000.
Kể từ khi việc nhận nuôi con nuôi có hiệu lực pháp
lý thì quan hệ về quyền và nghĩa vụ của mẹ và con nuôi phát sinh các quyền và nghĩa vụ
như con đẻ. Nghĩa vụ về quyền nhân thân giữa mẹ và con là các lợi ích về tinh
thần, là tình yêu thương gắn bó giữa mẹ và con mang tính ổn định và thiêng
liêng. Nghĩa vụ về quyền nhân thân giữa mẹ và con bao gồm.
a. Nghĩa vụ và quyền giữa mẹ
và con mang tính chất tình cảm, đạo lý.
Mẹ có nghĩa vụ yêu thương, trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con, chăm lo việc học tập
và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, chí tuệ và đạo đức, bảo
đảm cho con trở thành người con hiếu thảo cua gia đình, công dân có ích cho xã
hội điều 34 khoản 1 Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000.
Cha, mẹ phải tôn trọng ý
kiến của con, bảo đảm cho con được sống trong gia đình dân chủ nhằm bảo vệ
quyên và lợi ích của con và phát huy tính tự lập, sáng tạo của con.
Cha, mẹ không phân biệt đối
xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con, không được lợi dụng sức lao
động của con chưa thành niên hoặc xúi giục, ép buộc con làm những việc trái
pháp luật, trái đạo đức xã hội điều 34 khoản 2 Luật hôn nhân và gia đình năm
2000.
Con có bổn phận yêu quý,
kính trọng và biết ơn cha, mẹ lắng nghe lời khuyên bảo đúng đắn của cha, mẹ,
giữa gìn danh dự tốt đẹp của gia đình.
Con có nghĩa vụ, quyền chăm
sóc, nuôi dưỡng cha, mẹ về vật chất và tinh thần, bảo đảm cho cha, mẹ sống vui
khỏe, đặc biệt là khi cha, mẹ đã cao tuôi. Con không được có hành vi ngược đãi,
xúc phạm, hành hạ cha, mẹ điều 35 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Con có quyền chọn nghề
nghiệp và tham gia hoạt động xã hội. Cha, mẹ có quyền hướng dẫn con trong việc
chọn nghề nghiệp và tham gia các hoạt động xã hội mà không có quyền ngăn cấm
điều 37 khoản 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
b. Con chịu sự chi phối
đương nhiên của cha, mẹ trong chế định pháp lý về nhân thân.
Mẹ nuôi là người đại diện
theo pháp luật của con chưa thành niên, con mất năng lực hành vi dân sự, trừ
trường hợp con có người khác đại diện giám hộ điều 39 Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000. Mẹ có quyền nhân danh con để bảo vệ lợi ích hợp pháp của con. Con đã
trưởng thành có đủ điều kiện là người giám hộ cho cha, mẹ mât năng lực hành vi
dân sự.
2. Nghĩa vụ và quyền về tài
sản giữa mẹ và con nuôi.
Quan hệ giữa mẹ và con nuôi
được xác lập khí hai bên cho con đi làm con nuôi và bên nhận con nuôi ký vào sổ
đăng ký nhận con nuôi thì quyền và nghĩa vụ tài sản giữa cha, mẹ và con nuôi
cũng được xác lập từ đây.
Mẹ nuôi có quyền và nghĩa vụ
chăm sóc nuôi dưỡng con nuôi. Điều này xuất phát từ tinh cảm tự nhiên là cha,
mẹ yêu thương con, nên nghĩa vụ này được mẹ nuôi tự nguyện thực hiện. Trong Luật hôn
nhân và gia đình , nghĩa vụ này được bảo đảm về mặt pháp lý. Tuy nhiên cha, mẹ
chỉ phải thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con, con nuôi khi con chưa thành niên,
chưa có khả năng lao động để tự nuôi mình hoặc con bị tàn tật, mất năng lực
hành vi dân sự mà không có tài sản để tự nuôi mình quy định tại điều 36 khoản 1
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Con có nghĩa vụ và quyền
chăm sóc, nuôi dưỡng cha, mẹ nuôi đặc biệt khi cha, mẹ nuôi ốm, đau già yếu,
tàn tật. Các con không phân biệt con trai, hay con gái, con đẻ, hay con nuôi,
con trong hôn nhân, con ngoài hôn nhân đều phải có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng cha, mẹ như nhau.
Nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa
cha, mẹ nuôi và con nuôi là nghĩa vụ có đi có lại nhưng không mang tính chât
đồng thời và tuyệt đối, không mang tính chất đền bù tương đương, nghĩa vụ nuôi
dưỡng cha, mẹ và con luôn gắn liền với nhân thân của mỗi chủ thể, không thể
chuyển dịch cũng như không thể thay thế băng nghĩa vụ khác.
Quyền sở hữu tài sản riêng
của con nuôi. Theo quy định tại điều 44 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì
trong gia đình bât kỳ độ tuổi nào cũng có tài sản riêng. Quy định này khẳng
định quyền độc lập về tài sản của con trong gia đình và phù hợp với quy định
của hiến pháp về quyền sở hữu tài sản về công dân điều 58 Hiến pháp 1992. Tài
sản riêng gồm: Tài sản con được thừa kế riêng, được tăng cho riêng. Thu nhập do
lao động của con. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con. Các thu
nhập hợp pháp khác. Quản lý tài sản riêng của con, Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 quy định con từ đủ mười năm tuổi trở lên thì có thể tự mình quan lý
tai sản riêng. Nếu con nuôi không tự quản lý thì có thể nhờ mẹ nuôi quản lý
điều 45 khoản 1. Con dưới mười năm tuổi, con mất năng lục hành vi dân sự thì
không thể tự mình quản lý tài sản riêng của mình được. Vì vậy cha, mẹ có nghĩa
vụ và quyền quản lý tài sản riêng cho con hoặc có thể ủy quyền cho người khác
quản lý.Cha, mẹ phải quản lý tài sản riêng của con dưới mười năm tuổi hoặc con
mất năng lực hành vi dân sự.
Việc định đoạt tài sản riêng
của con chưa thành niên. Cha, mẹ quản lý tài sản riêng của con dưới mười năm
tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó. Việc định đoạt tài sản riêng của con
phải vì lợi ích chính của người có tài sản đó nếu con đã từ chín tuổi trở lên
mà không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không điều khiể được hành vi của
mình thì xem xét đến nguyện vong của con. Trong trường hợp con đủ mười năm tuổi
đến mười tám tuổi thì có quyề định đoạt tài sản riêng, định đoạt những tài sản
lớn phải có sự đồng ý cua cha, mẹ.
Con nuôi có quyền được thừa
kế hai mang, tài sản của cha, mẹ đẻ, cha, mẹ nuôi. Vì việc cho con đi làm con
nuôi không làm chấm dưt hoan toàn quan hệ với cha, mẹ đẻ đặc biệt là trong quan
hệ tinh cảm.
Nghĩa vụ của cha, mẹ trong
việc bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con gây ra. Cha mẹ phải
bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên dưới mười năm tuổi, con mất năng
lực hành vi dân sự gây ra.
III-QUYỀN LÀM MẸ ĐỐI VỚI CON
NUÔI TRONG THỰC TẾ.
Theo quy định tại điều 74
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có các quyền
và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định tại Luật này,
kể từ thời điểm đang khí việc nuôi con nuôi. Thì giữa cha, mẹ và con nuôi phát
sinh quyền và nghĩa vụ:
Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý
kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về
thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công
dân có ích cho xã hội. Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược
đãi, hành hạ, xúc phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành
niên; không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo
đức xã hội.
Con có bổn phận yêu quý,
kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng
đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình.Con có nghĩa
vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ.Nghiêm cấm con có hành vi ngược đãi,
hành hạ, xúc phạm cha mẹ.
Người mẹ có nghĩa vụ và
quyền chăm sóc con nuôi như con đẻ của mình, trong cuộc sống việc người mẹ
không đẻ con mà vẫn được làm mẹ là một điều rất tốt, phù hợp với đạo đức,
truyền thống tốt đẹo của xã hội. Vì trong xã hội chúng ta có biết bảo những đữa
trẻ sinh ra mà không có cha mẹ, hoặc cha mẹ của đứa trẻ lâm vào tình trạng đặc
biệt khó khăn, mất năng lực hành vi dân sự. Và không phải chỉ có những đứa trẻ
mà cả những người phụ nữ, người mẹ vì một lý nào đó không thể thực hiện được
chức năng cao quý nhất của người phụ nữ đó là chức năng làm mẹ. Việc nhận nuôi
con nuôi nhằm mục đích bù đắp sự thiế hụt về tình cảm, tình yêu thương, nên
người được nhận làm con nuôi thường được quan tâm, nuôi dưỡng, chăm sóc, giao
dục một cách tốt nhất từ bàn tay của người mẹ. Người mẹ chăm lo việc học tập
của con, hướng dẫn con chọn nghề nghiệp, việc làm, giúp đỡ con tham gia vào các
hoạt động xã hội.
Tuy nhiên trong xã hội việc
nhận nuôi con nuôi con nhăm mục đích khác, nuôi con nuôi nhằm muc đích bóc lột
sức lao động, ép buộc làm những việc vi phạm pháp luật. Đối với trường hợp như
vậy con nuôi bị hành hạ, đánh đập, bị xâm phạm đến nhân phẩm và tính mạng gây
ảnh hưởng xấu đến xã hội. tuy pháp luật cấm nhưng những hiện tượng như vậy vấn
con tồn tại rất nhiều trong xã hội. Con nuôi bị phân biệt đối xử với con đẻ, bị
cha mẹ nuôi khinh mệt, đánh đập hành hạ môt cách dã man. Điển hình là vụ chị Hồ
Thị Ba. Phường An Khánh
xét xử Hồ Thị Ba, bà mẹ từng hành hạ,
bắt bé Hồ Thị Bông (11 tuổi) phải đi ăn xin. Khởi tố vụ án bé gái 9 tuổi
bị đánh đập dã man Theo cáo
trạng, chiều 26/11/2007, do bé Bông... được Ba dắt về nhà nuôi.
hành động bất nhân của mình đối
với một đứa trẻ mà Ba tự nhận đó là con,
khiến ai cũng phải rùng mình, khiếp sợ.
Nhưng cũng không ít những
trường hợp con nuôi có những hành vi xâm hại đến sức khỏe, tính mạng và nhân
phẩm của người nuôi mình, yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng mình chính vì vậy
quyền làm mẹ ỏ đây cần được quan tâm.
Quan hệ giữa cha, mẹ nuôi và
con nuôi có thể chấm dứt quy định tại điều 74 Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 việc nuôi con nuôi có thể chấm dứt trong các trường hợp sau: cha, mẹ và
con nuôi đã thành niên tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi. Con nuôi bi
kết án một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe nhân phẩm, danh dự của
cha, mẹ nuôi, ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc có hành vi phá tài sản cuar
cha, mẹ nuôi. Quan hệ giữa mẹ nuôi và con nuôi cũng chấm dứt khi cha, mẹ đã có
hành vi hành hạ ông bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con người có công nuôi dưỡng mình,
dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp. Mua bán đánh
tráo, chiếm đoạt trẻ em, các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em, có hành vi
xúi giục, ép buộc con làm những việc trái đạo đức xã hội bị hạn chế một số
quyền cha, mẹ đối với con chưa thành niên… cha, mẹ đã lợi dụng việc nuôi con
nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì muc
đích trục lọi khác. Việc chấm dứt nuôi con nuôi do Tòa án nhân dân quyết định
theo yêu cầu của con nuôi đã thành niên, cha, mẹ đẻ, người giám hộ của người
con nuôi, cha, mẹ nuôi thì Tòa án nhân dân có thể tuyên bố châm dứt quan hệ giữa
cha ,mẹ nuôi và con nuôi.
KẾT LUẬN
Kể từ khi quan hệ giữa cha,
mẹ và con nuôi được xác lập
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NUỘI
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ
ĐỀ TÀI: ĐẢM BẢO QUYỀN LÀM MẸ TRONG VIỆC NUÔI CON NUÔI
SINH VIÊN THỰC HIỆN: TÔ VIỆT DŨNG
MÃ SỐ SINH VIÊN: 351550
LỚP: N08
NHÓM: 5
Hà Nội
Tháng 4 Năm 2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét