Bài tập số 14:
Gia đình ông
Toán sử dụng một mảnh đất ở 290 m2 từ năm 2003 Diện tích đất này, gia đình ông
Toán đã đóng thuế sử dụng đất cho nhà nước từ quý 4 năm 2003 đến năm 2006.
Tháng 8 năm 2007, gia đình ông bị chính quyền địa phương ra quyết định thu hồi
điện tích đất này. Gia đình ông khiếu nại từ đó đến nay nhưng không nhận được
sự trả lời thỏa đáng từ phía chính quyền địa phương. Họ nói: “Đây là dự án
chung không giải quyết một trường hợp gia đình ông”. Trong khi đó lại tiếp tục
cấp GCNQSĐ cho các hộ khác.
Hỏi:
1.
Việc làm của chính quyền địa phương trong vụ việc này
đúng hay sai? Vì sao?
2.
Nếu cán bộ xã có hành vi cố tình sai phạm thì nhà nước
có biện pháp xử lý cụ thể như thế nào để đảm bảo tinh nghiêm minh của pháp
luật.
3.
Anh (chị) hãy tư vấn cho ông Toán những việc làm cần
thiết để ông tự bảo vệ quyền lơi hợp pháp của mình.
MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT TRONG BÀI
QSDĐ………………………quyền sử dụng đất
GCNQSDĐ………………..giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất đai luôn là một vấn đề
nóng bỏng của xã hội mà tình trạng thu hồi đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất còn nhiều bất cập là một vấn đề gây bức xúc cho nhân dân. Chính vì vậy khiếu
nại, tố cáo, tranh chấp đất đai là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong xã hội;
Tiêu biểu trong số đó là việc khiếu nại về quyền sử dụng đất của ông Toán ở
tình huống nêu trên. Bằng những kiến thức, hiểu biết về Luật Đất Đai, em xin
đưa ra những nhận xét, đánh giá về vụ việc nêu trên.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.
Việc làm của chính quyền địa phương trong vụ việc
này là đúng hay sai? Vì sao?
Việc làm của chính quyền địa phương trong vụ việc
này là sai. Bởi vì:
Trường
hợp thứ nhất nếu vụ việc xảy ra trước ngày 01/07/2004 thì sẽ được giải quyết
theo Luật Đất Đai 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành luật này như sau: Căn
cứ theo Điều 38 Luật Đất Đai 2003 Nhà nước thu hồi toàn
bộ hoặc một phần đất đã giao sử dụng trong những trường hợp sau đây:
Trường hợp
thứ hai, căn cứ vào Điều 38 Luật Đất Đai 2003 về các trường hợp thu hồi đất,
thì các cơ quan có thẩm quyền chỉ được thu hồi
đất của gia đình ông Toán nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều
38, Luật Đất Đai 2003 nhưng việc sử dụng đất của gia đình ông Toán không thuộc
các trường hợp trên chính vì thế chính quyền địa phương ra quyết định thu hồi
đất đối với gia đình ông là sai.
Nhà nước thu hồi đất trong
các trường hợp sau đây:
1. Nhà nước sử dụng đất vào
mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển
kinh tế;
2. Tổ chức được Nhà nước giao
đất không thu tiền sử dụng đất, được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất
mà tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hoặc cho thuê đất thu
tiền thuê đất hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm hoặc
không còn nhu cầu sử dụng đất;
3. Sử dụng đất không đúng mục
đích, sử dụng đất không có hiệu quả;
4. Người sử dụng đất cố ý hủy
hoại đất;
5. Đất được giao không đúng
đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền;
6. Đất bị lấn, chiếm trong
các trường hợp sau đây:
a) Đất chưa sử dụng bị lấn,
chiếm;
b) Đất không được chuyển
quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này mà người sử dụng đất do thiếu
trách nhiệm để bị lấn, chiếm;
7. Cá nhân sử dụng đất chết
mà không có người thừa kế;
8. Người sử dụng đất tự
nguyện trả lại đất;
9. Người sử dụng đất cố ý
không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước;
10. Đất được Nhà nước giao,
cho thuê có thời hạn mà không được gia hạn khi hết thời hạn;
11. Đất trồng cây hàng năm
không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền; đất trồng cây lâu năm
không được sử dụng trong thời hạn mười tám tháng liền; đất trồng rừng không
được sử dụng trong thời hạn hai mươi bốn tháng liền;
12. Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự
án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền hoặc tiến độ
sử dụng đất chậm hơn hai mươi bốn tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư,
kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa mà không được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất đó cho phép.
Thứ ba, việc chính quyền địa
phương ra quyết định thu hồi đất đối với gia đình ông Toán nhưng ngược lại vẫn
tiếp tục cấp GCNQSDĐ cho ác hộ khác là sai bởi vì: gia đình ông Toán hoàn toàn
có đủ điều kiện là chủ sử dụng hợp pháp mảnh đất. Cụ thể căn cứ vào khoản 4
Điều 50 Luật Đất Đai 2003 quy định:
“4.Hộ gia
đình cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1
điều này nhưng đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay
được Ủy ban nhân dân xã phường thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp,
phù hợp với quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất”.
Mặt khác,
Điểm a, khoản 1, Điều 3 Nghị Định số 84/ND-CP ngày 25/05/2007 của chính phủ
hướng dẫn về đất sử dụng ổn định theo quy định tại khoản 4 điều 50 LĐĐ 2003 quy
định rõ: “ Đất đã được sử dụng liên tục cho một mục đích chính nhất định kể từ
khi bắt đầu sử dụng đất vào mục đích đó đến thời điểm được cấp giấy chứng nhận
hoặc đến thời điểm có quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đối với trường hợp chưa cấp giấy chứng nhận”.
Từ quy định
trên đối chiếu với thực tế tuy chưa có các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 50
nhưng gia đình ông Toán đã sử dụng đất ổn định trước ngày 01/07/2004 đất sử
dụng từ đó đến nay không có tranh chấp hơn thế nữa việc sử dụng đất không vi
phạm quy hoạch của nhà nước và mục đích sử dụng đất của gia đình ông toán từ
trước đến nay vẫn không hề thay đổi.
Như vậy, đất mà gia đình ông Toán sử dụng
hoàn toàn đủ điều kiện để Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất.
Trong
trường hợp này chính quyền địa phương không được phép thu hồi đất của gia đình
ông Toán mà phải cấp GCNQSDĐ như các hộ khác .Vì vậy, chính quyền địa phương ra
quyết định thu hồi đất của gia đình ông Toán trong khi đó lại cấp giấy chứng
nhận cho các hộ khác là sai.
2.
Nếu cán bộ xã cố tình sai phạm thì Nhà nước có
biện pháp có biện pháp xử lý cụ thể như thế nào để đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật?
Căn cứ theo
Điều 141 Luật Đất Đai 2003 về việc xử lý đối với người quản lý vi phạm pháp
luật về đất đai:
Người nào lợi
dụng chức vụ quyền hạn làm trái với quy định của pháp luật trong giao đất cho
thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng đất,
thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đất nghĩa vụ tài chính về đất đai, quản lý
hồ sơ địa chính, ra quyết định hành chính trong quản lý đất đai; thiếu trách
nhiệm trong quản lý để xảy ra vi phạm pháp luật về đất đai hoặc có hành vi khác
gây thiệt hại đến tài nguyên đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất
thì tùy theo tính chất mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, Căn
cứ theo Điều 172. Vi phạm quy định về thu hồi đất.
Nghị định số
181/2004/ND-CP ngày 29/10/2004 của chính phủ về thi hành luật đất đai.
a, Không
thông báo trước cho người có đất bị thu hồi theo quy định tại Điều 39 của luật
đất đai; không công khai phương án bồi
thường tái định cư.
b, Thực hiện
bồi thường không đúng đối tượng, diện
tích, mức bồi thường cho người có đất bị thu hồi; làm sai lệch hồ sơ thu hồi
đất: xác định sai vị trí và diện tích đất bị thu hồi trên thực địa.
c, Thu hồi
đất không đúng thẩm quyền; không đúng đối tượng; không đúng với quy hoạch sử
dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét duyệt.
2. Hình thức
kỷ luật được quy định như sau:
a, Có hành vi
quy định tại điểm a, khoản 1 điều này do thiếu trách nhiệm thì bị khiển trách,
tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo; cố ý thì bị hạ bậc lương; tái
phạm do cố ý thì bị hạ nghạch;
b, Có hành vi
quy định tại điểm b và khoản 1 điều này do thiếu trách nhiệm thì bị khiển trách
hoạch cảnh cáo, tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo hoặc hạ bậc
lương; cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách
chức, tái phạm do cố ý thì bị cách chức hoặc buộc thôi việc.
c, Có hành vi
quy định tại điểm c khoản 1 điều này do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo hoặc
bị hạ bậc lương, tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo hoặc hạ ngạch; cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách
chức, tái phạm do cố ý thì bị buộc thôi việc.
Như vậy
nếu cán bộ xã có hành vi cố tình sai
pham thì căn cứ theo mức độ sai phạm sẽ bị xử lý.
3. Anh (chị)
hãy tư vấn cho ông Toán những việc làm cần thiết để ông tự bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của mình?
Theo quy định
tai khoản 1 điều 138 luat đât dai người sử dụng đất có quyền khiếu nại quyết
định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai.
Theo khoản 2
điều 138 Việc giải
quyết khiếu nại được thực hiện như sau:
a) Trường
hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết
lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền
khởi kiện tại Toà án nhân dân hoặc tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Trong trường hợp khiếu nại đến Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì quyết định của
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quyết định
giải quyết cuối cùng;
b) Trường
hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết lần
đầu mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khởi
kiện tại Toà án nhân dân;
c) Thời
hiệu khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai là
ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành
vi hành chính đó. Trong thời hạn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày nhận được quyết
định giải quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền
khiếu nại đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân
dân.
3. Việc
giải quyết khiếu nại về đất đai quy định tại khoản 2 Điều này không bao gồm
trường hợp khiếu nại về quyết định giải quyết tranh chấp đất đai quy định tại
khoản 2 Điều 136 của Luật này.
Nếu cán bộ xã có hành vi cố tình sai phạm thì
gia đình ông Toán có thể tố cáo theo quy định tại Điều 139 Giải quyết tố cáo về đất đai
1. Cá nhân
có quyền tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai.
2. Việc
giải quyết tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai thực hiện
theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trường hợp trên là thực trạng
còn tồn tại
trên thực tế, nó đặt ra cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền những vấn đề
quan trọng về việc quản lý đất đai. Đồng thời là vấn đề quản lý chặt chẽ về đất đai tránh tình trạng sai phạm trong
việc câp giấy chung nhan quyen sử dung đất thu hồi đất phổ biến như hiện nay để việc quản lý và sử
dụng đất được hợp lý tránh tình trạng bất cập gây bức xúc cho nhân dân.
DANH
MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Đất Đai Việt Nam năm
2003, sửa đổi bổ sung các năm 2009, 2010, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2010
2. Luật Đất Đai
1993
3. Trường Đại học Luật Hà Nội,
Giáo trình luật đất đai, Nxb. CAND, Hà Nội, 2008.
4. Nghị định của Chính phủ số
181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai.
5. Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày
25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất, thực
hiện QSDĐ, trình tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất và giải quyết khiếu nại
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1 Việc làm
của chính quyền địa phương trong vụ việc này là đúng hay sai? Vì sao?
2. Nếu cán bộ
xã cố tình sai phạm thì Nhà nước có biện pháp có biện pháp xử lý cụ thể như thế
nào để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật?
3. Anh (chị)
hãy tư vấn cho ông Toán những việc làm cần thiết để ông tự bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của mình?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét