LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội ngày càng phát triển thì các
vấn đề về thừa kế đặt ra càng phức tạp, đòi hỏi hệ thống pháp luật Việt Nam
phải hoàn thiện hơn để phù hợp với thực tiễn. Thừa kế là một trong những chế định cơ bản của pháp luật dân sự Việt
Nam .
Thừa kế gồm có thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Thừa kế theo di
chúc là việc chuyển tài sản của người đã chết cho những người thừa kế theo ý chí
tự nguyện của người để lại di sản thể hiện trong di chúc. Vậy di chúc là gì, di
chúc có những hình thức nào và việc quy định các hình thức của di chúc có ý nghĩa
gì? Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn những điều này nên em đã chọn đề tài “Những vấn
đề về hình thức của di chúc” cho bài tập lớn học kỳ của mình.
NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA DI CHÚC
1. Khái niệm
Điều 646 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
“Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người
khác sau khi chết”.
Di chúc còn được gọi là chúc thư do cá
nhân còn sống tự nguyện lập ra với mục đích chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình cho người còn sống khác, sau khi người lập di chúc chết. Người lập di chúc
dựa vào ý chí và tình cảm của mình (mang tính chủ quan), định đoạt cho người khác
được hưởng di sản sau khi qua đời. Do tính chất chủ quan của ý chí và mục đích
chuyển dịch tài sản của người lập di chúc cho người khác hưởng sau khi chết đã
phản ánh tính độc lập và tự định đoạt của người lập di chúc.
Về phương diện khoa học pháp lý thì
di chúc là phương tiện phản ánh trung thực ý nguyện cuối cùng của cá nhân trong
việc dịch chuyển tài sản của họ cho người khác sau khi chết.
Di chúc thường được thể hiện thông
qua một hình thức nhất định, trong đó người lập di chúc bày tỏ ý chí của mình về
việc định đoạt toàn bộ hay một phần tài sản của mình cho một người hay cho nhiều
người khác nhau. Việc chuyển tài sản của người đã chết cho những người khác sau
khi người đó chết căn cứ vào di chúc mà người đó đã lập khi họ còn sống được gọi
là thừa kế theo di chúc.
2. Đặc điểm của di chúc
Qua trên, chúng ta thấy rằng, di chúc
với tư cách là căn cứ để dựa vào đó thực hiện quá trình dịch chuyển tài sản của
người chết cho người khác luôn luôn hàm chứa các đăc điểm sau đây:
- Di chúc là ý chí đơn phương của cá
nhân
Di chúc là “sự thể hiện ý chí của cá nhân” (Điều 646 Bộ luật dân sự) nên nó được
hình thành duy nhất bằng ý chí đơn phương của người để lại thừa kế (một bên chủ
thể trong giao dịch dân sự về thừa kế). Qua việc lập di chúc, cá nhân đó có ý định
làm xác lập một giao dịch dân sự về thừa kế. Theo đó họ quyết định chuyển giao
một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình cho người đã được họ xác định trong di
chúc mà không cần biết người đó có nhận di sản của mình hay không. Như vậy, nếu
hợp đồng (giao dịch hai bên) được hình thành bởi sự thoả thuận ý chí của nhiều
bên chủ thể thì di chúc chỉ là sự quyết định đơn phương của người lập ra nó.
Đối với những di chúc do vợ, chồng lập
chung, trong đó mặc dù thể hiện ý chí của cả hai người nhưng di chúc vẫn mang tính
chất quyết định đơn phương bởi dù di chúc thể hiện ý chí của nhiều người nhưng
những người đó vẫn chỉ là một bên trong giao dịch dân sự.
- Di chúc nhằm chuyển tài sản của người
chết cho người khác đã được xác định trong di chúc
Đây là nội dung quan trọng không thể
thiếu được của một di chúc nếu muốn được coi là một căn cứ để dịch chuyển tài sản
của người chết cho những người khác. Thông thường, một người chỉ lập di chúc
trong trường hợp họ có một khối tài sản trước khi chết và muốn bằng ý chí của
mình để định đoạt cho ai đó. Mặt khác, cho dù trước lúc chết, người đó có một
khối tài sản và cũng để lại di chúc nhưng nếu di chúc không chứa đựng nội dung
này thì cũng không làm phát sịnh thừa kế theo di chúc. Nghĩa là di chúc đó chẳng
có ý nghĩa gì đối với quá trình dịch chuyển tài sản. Nói cách khác, di chúc chỉ
đem lại ý nghĩa về mặt vật chất cho những người thừa kế theo di chúc đồng thời
chỉ thật sự là một phương tiện để người để lại thừa kế thực hiện quyền định đoạt
đối với tài sản của mình chừng nào di chúc chứa đựng nội dung nói trên.
Thừa kế ở bất kỳ một nhà nước nào cũng
đều là sự quy đinh của pháp luật nhằm điều chỉnh qúa trình dịch chuyển tài sản
từ một người đã chết sang những người còn sống khác với tư cách là hệ luận của
quyền sở hữu, pháp luật về thừa kế là phương tiện để đảm bảo cho chủ sở hữu thực
hiện quyền định đoạt đối với tài sản của mình. Thông qua thừa kế, quyền sở hữu
của một người đối với thành quả lao động của họ được dịch chuyển từ đời này qua
đời khác. đặc biệt, ghi nhận về tôn trọng quyền định đoạt tài sản của người lập
di chúc chính là việc pháp luật tôn trọng và bảo đảm quyền tự định đoạt của chủ
sở hữu đối với tài sản của họ, đảm bảo cho người lập di chúc “có quyền sử dụng
tài sản ngay cả khi đã chết rồi”.
- Di chúc là loại giao dịch dân sự chỉ
có hiệu lực khi chính người xác lập ra nó đã chết
Việc xác lập di chúc và việc giao kết
hợp đồng đều là những giao dịch dân sự. Tuy nhiên, nếu như hợp đồng thể hiện ý
chí của cả hai bên thì di chúc chỉ thể hiện ý chí của một bên. Sự khác nhau này
làm cho một di chúc có tính chất khác hẳn so với một hợp đồng dân sự. Nếu hợp đồng
dân sự có hiệu lực từ thời điểm giao kết (trừ trường hợp các bên có thoả thuận
hoặc pháp luật có quy định khác) thì thời điểm bắt đầu có hiệu lực của di chúc
hoàn toàn phụ thuộc vào thời điểm người lập ra nó chết. Khoản 1 Điều 667 Bộ luật
dân sự 2005 đã quy định: “Di chúc có hiệu
lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế”. Tức là, khi người lập di chúc còn sống
thì di chúc đó chưa có hiệu lực. Mặt khác, di chúc chỉ là ý chí đơn phương của
người lập ra nó nên người lập di chúc luôn luôn có quyền tự mình thay đổi nội
dung đã định đoạt trong di chúc hoặc huỷ bỏ di chúc đã lập. Tính chất này cho
chúng ta thấy rằng dù di chúc đã được lập nhưng khi người lập di chúc còn sống
(trong thực tế, từ thời điểm di chúc đã lập đến thời điểm người lập di chúc chết
bao giờ cũng có một khoảng cách nhất định về mặt thời gian) thì người thừa kế
theo di chúc không có bất kỳ một quyền nào đối với tài sản của người lập di chúc
và họ cũng chưa chắc chắn có được hưởng di sản đó hay không.
Pháp luật tôn trọng quyền lập di chúc
của cá nhân với hai mục đích. Một mặt, nhằm đảm bảo quyền định đoạt của chủ sở
hữu. Mặt khác, nhằm đảm bảo cho cá nhân thông qua việc định đoạt tài sản của mình
để thể hiện tình cảm, trách nhiệm của mình đối với những người khác. Vì vậy, nếu
sự định đoạt trong di chúc đã lập không còn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh hiện
tại thì người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ di chúc.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HÌNH THỨC CỦA DI
CHÚC
Điều 649 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
“Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu
không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.
Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc
tiếng nói của dân tộc mình”.
Hình thức của di chúc là sự thể hiện ý
chí của người lập di chúc ra bên ngoài cho người khác biết, để sau này căn cứ vào
đó mà thực hiện ý chí của người lập di chúc sau khi người đó chết. Di chúc lập
ra phải theo hình thức do pháp luật quy định.
Di chúc trước hết phải lập thành văn
bản. Điều 5 Hiến pháp năm 1992 quy định rõ: “các
dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy
những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình”. Di chúc
có thể được thể hiện bằng chữ viết hoặc tiếng nói bằng tiếng Kinh, những cũng có
thể bằng chữ viết hoặc tiếng nói của bất kỳ dân tộc nào.
Di chúc miệng chỉ được coi là có giá
trị pháp lý khi thoả mãn các điều kiện quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự.
Sau đây ta sẽ đi tìm hiểu về từng hình thức của di chúc.
1.
Di chúc bằng văn bản
Di chúc bằng văn bản quy định tại Điều
650 Bộ luật dân sự bao gồm; di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, di
chúc bằng văn bản có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có công chứng và di
chúc bằng văn bản có chứng thực. Chứng thực hay công chứng, có người làm chứng
hay không có người làm chứng là cơ sở để xác định tính khách quan của di chúc,
là bằng chứng để bảo vệ lợi ích của người thừa kế theo di chúc và là chứng cứ
chứng minh di chúc do người có tài sản tự nguyện lập ra. Di chúc bằng văn bản
theo quy định tại Điều 653 BLDS có nội dung sau:
“1. Di chúc phải ghi rõ:
a.
Ngày, tháng, năm lập di chúc
b.
Họ, tên và nơi cư trú của người lập
di chúc;
c.
Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được
hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được
hưởng di sản;
d.
Di sản để lại và nơi có di sản;
đ. Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
2. Di chúc không được viết tắt hoặc
viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số
thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc”.
Nội dung
của di chúc là các điều khoản của di chúc thể hiện ý chí của người lập di chúc.
Từ quy định trên ta thấy, nội dung của
di chúc bao gồm:
thứ nhất, ngày, tháng, năm lập di chúc. Điều
này có ý nghĩa quan trọng trong trường hợp người lập di chúc đã lập nhiều di chúc
về di sản hoặc một phàn di sản của mình. Phải đối chiếu ngày, tháng, năm trong
các di chúc này. Di chúc nào mà ngày, tháng, năm lập di chúc là thời gian gần
nhất với ngày mà người lập di chúc chết, thì được coi là di chúc lập cuối cùng.
Di chúc này có thể bổ sung, sửa đổi, hoặc huỷ bỏ toàn bộ hoặc một phần của di
chúc, hoặc các di chúc đã lập trước đó.
thứ hai, họ, tên và nơi cư trú của người lập
di chúc
thứ ba, họ, tên người được hưởng di sản hoặc
một phần di sản, một hiện vật nhất định hay một số tiền nhất định trong khối di
sản.
thứ tư, di sản để lại và nơi có di sản. Nên
ghi cụ thể các hiện vật trong khối di sản nếu thấy là cần thiết, nhất là đối với
những hiện vật có giá trị. Nếu có các hiện vật để rải rác ở nhiều nơi thì ghi rõ
nơi để hoặc giữ hiện vật đó, để sau này thu thập lại và giải quyết việc phân
chia tài sản. các món tiền gửi ở đâu, hoặc cho ai vay chưa đòi đều được ghi vào
để thu hồi và phân chia cho những người thừa kế.
thứ năm, trong các di chúc bằng văn bản, người
lập di chúc có thể chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
Ví dụ, chỉ định đích danh người đứng ra trả một món nợ vay cho ai mà người lập
di chúc đã vay khi còn sống chưa trả, hoặc chỉ định người thừa kế theo di chúc
với điều kiện người thừa kế phải thực hiện một nghĩa vụ nhất định. Tuy nhiên,
những nghĩa vụ mà người thừa kế phải thực hiện không được trái với quy định của
pháp luật và đạo đức xã hội. Nếu là nghĩa vụ về tài sản thì người thừa kế chỉ
phải thực hiện nghĩa vụ này trong phạm vi di sản mà người thừa kế đó nhận.
Ngoài
ra, người lập di chúc còn có thể chỉ định trong di chúc người giữ di chúc, người
quản lý di sản khi người lập di chúc chết, người phân chia tài sản.
Xét khoản
2 của Điều 653, ta thấy một điểm cần lưu ý trong thể thức lập di chúc bằng văn
bản là trong di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiêu. Nếu di chúc gồm
nhiều trang thì phải đánh số thứ tự các trang vào mỗi trang của di chúc, mỗi
trang đó đều phải có chữ ký của người lập di chúc. Nếu là di chúc bằng văn bản
có người làm chứng thì mỗi trang đó đều phải có chữ ký của người làm chứng. các
chữ ký nên ký vào cuối mỗi trang, ngay dưới dòng chữ cuối cùng. Nếu là di chúc
có chứng thực hay công chứng nhà nước thì phải có dấu giáp lai của Uỷ ban nhân
dân hoặc công chứng nhà nước vào các trang của di chúc. Thể thức này có ý nghĩa
quan trọng nhằm đề phòng việc thay thế một trang của di chúc để làm thay đổi nội
dung của di chúc.
Theo như
Điều 650 ta thấy, di chúc bằng văn bản có 4 hình thức, đó là di chúc bằng văn bản
không có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có người làm chứng, di chúc bằng
văn bản có công chứng và di chúc bằng văn bản có chứng thực.
1.1 Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
Điều 654 Bộ luật dân sự quy định mọi
người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người được quy định
trong điều này, đó là:
Người thừa kế theo di chúc hoặc theo
pháp luật của người lập di chúc; người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan đến
nội dung di chúc; người chưa đủ mười tá tuổi, người không có năng lực hành vi dân
sự.
Như vậy nếu di chúc có người làm chứng
thì người làm chứng phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Đồng thời,
trong việc lập di chúc phải có sự tự nguyện hoàn toàn của người lập di chúc về
nội dung của di chúc. Những quy định tại khoản 1 và khoản 2 của điều này có ý
nghĩa ngăn ngừa sự tác động của người thừa kế theo di chúc hoặc người thừa kế
theo pháp luật của người lập di chúc, hay của người có quyền lợi hoặc nghĩa vụ
tài sản liên quan tới nội dung di chúc vào ý chí của người lập di chúc khi lập
di chúc.
Điều 655, quy định về di chúc bằng văn
bản không có người làm chứng như sau:
“Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy
định tại Điều 653 của Bộ luật này”.
Như vậy, di chúc bằng văn bản không có
người làm chứng phải do người lập di chúc tự tay viết và ký vào bản di chúc. Nói
cách khác, đối với di chúc bằng văn bản không có người làm chứng thì di chúc đánh
máy không có giá trị pháp lý, dù rằng người lập di chúc biết đánh máy chữ và tự
tay đánh máy di chúc.
Trong thực tiễn xét xử các vụ tranh
chấp về di sản thừa kế đối với thừa kế theo di chúc, đã xảy ra nhiều trường hợp
một bên đương sự không thừa nhận di chúc, cho là di chúc giả mạo. Người ta nêu
lý do di chúc đánh máy không phải phải do người để lại di sản lập ra mà do người
khác lập, hoặc người lập di chúc ký vào di chúc đánh máy sẵn khi không còn minh
mẫn vì ký vào lúc hấp hối, chữ ký trong di chúc đánh máy không phải là chữ ký của
người lập di chúc.
Ý nghĩa của quy định di chúc bằng văn
bản không có người làm chứng phải do người lập di chúc tự tay viết:
thứ nhất, chỉ sau khi người lập di chúc
chết, di chúc mới được thi hành. Nếu có việc không thừa nhận di chúc. Cho là giả
mạo thì việc giám định những nét chữ của một người trên một trang giấy hoặc trên
nhiều trang giấy của một di chúc viết tay cũng dễ dàng và thuận lợi hơn là giám
định có một chữ ký của người lập di chúc trong một di chúc đánh máy để xác định
có giả mạo chữ viết hay không.
thứ hai, việc tự tay mình viết di chúc
thể hiện ý chí của chính mình định đoạt tài sản sau khi chết nói lên người lập
di chúc ở trạng thái minh mẫn, sáng suốt khi lập di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản không có
người làm chứng phải tuân theo những quy định của Điều 653 Bộ luật dân sự về nội
dung của di chúc bằng văn bản.
1.2 Di chúc bằng văn bản có người làm
chứng
Điều 656 Bộ luật dân sự quy định: “Trong trường hợp người lập di chúc không
thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ ngời khác viết, nhưng phải có ít
nhất hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di
chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký,
điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Điều 653 và Điều 654 của Bộ
luật này”.
Như vậy, trong trường hợp người lập
di chúc không thể tự mình viết bản di chúc vì không biết đọc, biết viết hoặc vì
lý do nào khác thì có thể nhờ người khác viết hộ di chúc. Người lập di chúc phải
đọc cho người khác viết hộ di chúc trước mặt ít nhất hai người làm chứng. Di chúc
viết xong phải do người làm chứng đọc to cho mọi người nghe, được người lập di
chúc thừa nhận là di chúc viết hộ đã ghi đúng và đầy đủ những lời đọc của người
lập di chúc.
Người lập di chúc và người viết hộ di
chúc phải cùng ký tên vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng. Nếu người
lập di chúc không ký được, thì điểm chỉ vào di chúc và trong di chúc ghi rõ lý
do không ký được. Sau đó, những người làm chứng ký vào di chúc xác nhận có việc
lập di chúc trước mặt mình, xác nhận người lập di chúc và người viết hộ di chúc
đã ký vào di chúc trước mặt mình.
Họ, tên, tuổi và nơi cư trú của người
viết hộ di chúc và những người làm chứng cần được ghi rõ trong di chúc. cần ghi
rõ tuổi của họ để biết rõ đó là những người đã đủ mời tám tuổi trở lên mới có
thể là người viết hộ di chúc, người làm chứng trong việc lập di chúc.
1.3 Di chúc bằng văn bản có công
chứng hoặc chứng thực
Theo Điều 657 BLDS, người lập di chúc
có thể yêu cầu công chứng nhà nước chứng nhận bản di chúc của mình hoặc có quyền
yêu cầu uỷ ban nhân dân cấp xã chứng thực vào bản di chúc do mình lập ra. Người
lập di chúc phải tự mình mang bản di chúc đến công chức nhà nước yêu cầu công
chứng. Pháp luật không cho phép người lập di chúc uỷ quyền cho người khác mang
di chúc của mình đến công chứng nhà nước yêu cầu công chứng. Công chứng viên có
nghĩa vụ công chứng vào bản di chúc theo yêu cầu của người lập di chúc. Tuy nhiên,
yêu cầu của ngươì lập di chúc có thể bị công chứng viên từ chối trong trường hợp
có sự nghi ngờ người lập di chúc đã không làm chủ hành vi lập di chúc do có dấu
hiệu của bệnh tâm thần, có dấu hiệu của bệnh khác đã không thể nhận thức và làm
chủ được hành vi của mình hoặc di chúc được lập ra do bị người khác lừa dối, doạ
nạt, áp đặt ý chí đối với người lập di chúc. Những tình huống trên cũng cũng được
áp dụng đối với uỷ ban nhân dân, nơi người lập di chúc yêu cầu chứng thực di chúc.
Tuy nhiên, những nghi ngờ của công chứng viên hoặc thư ký uỷ ban nhân dân có thể
được giải toả bằng những minh chứng của cơ quan giám định xác minh theo yêu cầu
của người lập di chúc.
1.4 Di chúc bằng văn bản được lập
trong những trường hợp đặc biệt (di chúc có giá trị như di chúc được công chứng
hoặc chứng thực)
Trường hợp thứ nhất, theo quy định tại Điều 658 BLDS thì
thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc uỷ ban nhân dân cấp xã theo những
thủ tục sau: Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng
viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung
mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di
chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý
chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc.
Đối với di chúc được lập theo thủ tục
trên, tại khoản 2 Điều 658 BLDS quy định: “Trong
trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc,
không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này
phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực
của uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng
thực của uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt
người lập di chúc và người làm chứng”. Theo quy định tại Điều 659 BLDS, công
chứng viên, người có thẩm quyền của uỷ ban nhân dân cấp xã không được công chứng,
chứng thực di chúc nếu họ là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của
người lập di chúc; người có cha, mẹ, con là người thừa kế theo di chúc hoặc
theo pháp luật của người lập di chúc; người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên
quan đến nội dung của di chúc.
Người không đọc được hoặc không nghe được
bản di chúc, không ký được hoặc không điểm chỉ được vào bản di chúc là người mù
chữ, người cụt cả hai tay nhưng họ phải là người hiểu và làm chủ được hành vi của
mình, người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự hoặc người từ đủ mười lăm tuổi đến
dưới mười tám tuổi không tâm thần, không mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức
và làm chủ hành vi của mình. Với quy định này, pháp luật luôn coi trọng và bảo
hộ ý chí của người lập di chúc, còn các khiếm khuyết về thể chất của người lập
di chúc không phải là điều kiện để cấm đoán người này định đoạt tài sản theo di
chúc.
Trường hợp thứ hai, theo quy định tại Điều 661 BLDS về
di chúc do công chứng viên lập tại chỗ ở: căn cú vào tình trạng và thể chất của
người lập di chúc, người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của
mình để lập di chúc. Di chúc lập tại chỗ ở của người lập di chúc cũng phải tuân
theo những thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn theo quy định tại Điều 658 BLDS. Di chúc của công dân Việt Nam
đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt
Nam ở nước đó; di chúc của người đang bị tạm giam , đang chấp hành hình phạt tù,
người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa
bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sơ đó.
Trường hợp thứ ba, theo quy định tại Điều 660 BLDS về
di chúc, văn bản có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực là di chúc
của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng từ cấp đại đội trở lên; di chúc
của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của ngươì chỉ huy phương
tiện đó (thuyền trưởng, phi đội trưởng của chuyến tàu biển, chuyến máy bay đó);
di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác
có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở chữa bệnh đó; di chúc của người
đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác
nhận của người phụ trách đơn vị.
Quy định tại Điều 660 BLDS thể hiện rõ
tính phù hợp và năng động, linh hoạt của pháp luật thừa kế Việt Nam, thể hiện rõ
sự tôn trọng hiện thực khách quan trong từng hoàn cảnh về không gian cụ thể của
người lập di chúc; theo đó hiệu quả điều chỉnh của Điều luật có tính thực tế
cao và phù hợp với những đòi hỏi hiện thực của các quan hệ xã hội phong phú ở nước
ta giai đoạn hiện nay.
Một điểm cần lưu ý là di chúc của người
từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và
phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Người lập di chúc bằng văn bản có quyền,
tuỳ theo ý muốn của mình và tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể chọn một trong những hình
thức di chúc bằng văn bản nói trên khi lập di chúc bằng văn bản. Các hình thức
di chúc bằng văn bản nói trên đều có giá trị pháp lý như nhau. Tuy nhiên, khi lập
di chúc bằng văn bản, người lập di chúc cần lưu ý phải ghi rõ ngày, tháng, năm
lập di chúc. Vì pháp luật quy định người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung
hoặc thay thế di chúc. Do đó, di chúc được lập sau sẽ có giá trị pháp lý huỷ bỏ
phần di chúc lập trước có nội dung trái với di chúc lập sau.
2. Di chúc miệng
Điều 651 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
“1. trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe doạ do bệnh tật
hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di
chúc miệng.
2. sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống,
minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ”.
Di chúc miệng được quy định tại Điều
651 BLDS và giá trị pháp lý của di chúc miệng được quy định tại khoản 5 Điều
652 BLDS. Di chúc miệng hợp pháp nếu di chúc đó do chính người có tài sản thể
hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng (người làm
chúng phải thoả mãn quy định tại Điều 654 BLDS) và ngay sau đó những người làm
chứng ghi chép lại một cách trung thực sự thể hiện ý chí của người di chúc miệng,
sau đó đọc cho người lập di chúc nghe và cùng ký tên hoặc điểm chỉ vào biênbản
làm chứng việc di chúc miệng. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc
miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì biên bản di chúc miệng phải được công chứng
hoặc chứng thực theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục công chứng, chứng thực.
Di chúc miệng chỉ có hiệu lực thi hành
trong thời hạn ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng và trong thời hạn này, người
di chúc miệng chết thì di chúc miệng được thi hành khi chia tài sản. Nhưng sau
ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn,
sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ. Theo quy định của pháp luật về
di chúc miệng thì có một số vấn đè cần phải làm rõ:
2.1 Về thời hạn của di chúc miệng
Nếu sau ba tháng, kể từ thời điểm di
chúc miệng mà người lập di chúc còn sống và minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng
mặc nhiên vô hiệu. Chúng ta cần phải hiểu thế nào là trường hợp người di chúc miệng
còn sống, minh mẫn, sáng suốt vì đó là cơ sở pháp lý nhằm xác định di chúc miệng
có hiệu lực thi hành hay không khi đã quá hạn ba tháng kể từ thời điểm di chúc
miệng mà người di chúc miệng còn sống nhưng không còn minh mẫn, sáng suốt nữa.
Minh mẫn được hiểu là làm chủ được hành
vi của mình, hiểu được mình muốn làm gì và không muốn làm gì một cách tự chủ và
độc lập không có bát kỳ sự can thiệp nào của người khác. Cá nhân còn sáng suốt
thể hiện trong việc việc độc lập suy nghĩ, nận xét, đánh giá sự vật, sự việc diễn
ra quanhh mình và không có sự nhầm lẫn, bất thường giữa sự vật này với sự vật
khác, cá nhân này với cá nhân khác, hiện tượng này với hiện tượng khác. Tức là,
ngươì còn minh mẫn, sáng suốt là người nhận biết rõ ràng những sự vật hiện tượng
diễn ra quanh mình và hiểu được các hành vi của chính mình trong các quan hệ xã
hội và có các cảm giác tương tự như những người bình thường khác đối với cùng
hiện tượng, sự vật, sự việc.
2.2 Về hiệu lực của di chúc miệng
Khoản 2 Điều 651 BLDS quy định: “Sau ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng
mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị
huỷ bỏ”.
Theo quy định này, di chúc miệng chỉ
có hiệu lực thi hành nếu thoả mãn điều kiện người lập di chúc phải qua đời
trong thời hạn ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng . Tuy nhiên, một vấn đề đặt
ra là trong trường hợp cho dù đã quá thời hạn ba tháng kể từ thời điểm di chúc
miệng mà người di chúc miệng vẫn còn sống nhưng không còn minh mẫn, sáng suốt
thì di chúc miệng có hiệu lực thi hành sau khi người di chúc miệng chết hay không?
Trong trường hợp này pháp luật không trực tiếp quy định nhưng ta có thể thấy
trong trường hợp này người di chúc miệng chỉ còn sống mà không còn minh mẫn, sáng
suốt nữa tức là điều kiện để người đó lập di chúc không còn nên di chúc miệng vẫn
có hiệu lực pháp luật. Khẳng định này xuất phát từ các nguyên tắc của pháp luật
dân sự, chủ thể định đoạt tài sản của mình theo di chúc hoàn toàn tự do, tự
nguyện, tự định đoạt tài sản của mình nhưng điều kiện ý chí không còn tồn tại
do cá nhân đã không còn minh mẫn, sáng suốt nữa. từ những cơ sở trên, di chúc
miệng được lập ra, cho dù người lập di chúc còn sống nhưng không còn minh mẫn,
sáng suốt thì hiệu lực của di chúc vẫn phát sinh sau khi người di chúc miệng chết.
Theo quy định tại Điều 649 BLDS, người
thuộc dân tộc thiểu số ở nước ta có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng
nói của dân tộc mình. Đây là quy định nhằm đảm bảo quyền bình đẳng của cá nhân
giữa các dân tộc khác nhau trong việc định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình. Quy định này đã bảo vệ quyền dân sự cơ bản của cá nhân trong việc lập di
chúc định đoạt tài sản của mình sau khi chết.
Ngoài ra, trong những trường hợp cụ
thể, cá biệt pháp luật không quy định về việc cá nhân mang quốc tịch Việt Nam
nhưng không viết và nói được bằng tiếng Việt nên cá nhân đã lập di chúc bằng tiếng
nước ngoài, vậy di chúc này có hợp pháp không? Tuy pháp luật không quy định về
trường hợp cá biệt này nhưng cá nhân mang quốc tịch Việt Nam lập di chúc bằng một thứ tiếng
nước ngoài, di chúc đó vẫn có hiệu lực pháp lý.
Trong thời đại khoa học và tin học phát
triển, di chúc có thể được lập thông qua các phương tiện kỹ thuật, bán dẫn, điện
tử như ghi âm, viết bằng máy chữ, máy vi tính, quay phim, chụp ảnh… nếu không có
người làm chứng hoặc không có công chứng, chứng thực đều bị vô hiệu; vì việc
thay đổi, làm giả di chúc dưới các hình thức này khá dễ dàng.
3.
hình thức của di chúc trái với quy
định của pháp luật và hậu quả pháp lý của nó
Điều 652 quy định Điều kiện di chúc được
coi là hợp pháp, Tại điểm b, khoản 1 quy định: “.. hình thức của di chúc không trái quy định của pháp luật”. tức là
nếu hình thức của di chúc trái với quy định của pháp luật thì di chúc đó sẽ không
được coi là hợp pháp và do đó không có hiệu lực pháp luật.
Theo quy định tại Điều 649 thì việc lập
di chúc chỉ có thể tiến hành theo một trong hai hình thức hoặc là bằng văn bản
hoặc là di chúc miệng. Trong đó, hình thức bằng văn bản của di chúc có thể được
thể hiện bằng nhiều phương tiện khác nhau, thông qua nhiều vật mang tin khác
nhau như có thể viết tay, có thể đánh máy và in thành văn bản hoặc sao chép vào
đĩa mềm. Tuy nhiên, nếu di chúc bằng văn bản được lập theo trình tự di chúc bằng
văn bản không có người làm chứng thì phương tiện thể hiện và vật mang tin phải đúng
theo quy định của pháp luật là viết tay
vào giấy. Vì vậy, nếu di chúc mà người chết tự lập không có người làm chứng
để lại là một văn bản đánh máy thì dù trong đó đã có chữ ký của chính họ thì người
có quyền lợi liên quan vẫn có thể khởi kiện yêu cầu xác định sự vô hiệu của di
chúc.
Lập di chúc là một hành vi pháp lý đơn
phương của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Lập
di chúc là một giao dịch dân sự có hiệu lực sau khi người thể hiện ý chí chết,
vì vậy để đảm bảo tính pháp chế và khách quan của di chúc, pháp luật cần tống
nhất về một hình thức của di chúc là phải có công chứng hoặc chứng thực.
Thực tế đã có những vụ việc liên quan
đến việc tranh chấp thừa kế do nghi ngờ di chúc giả mạo.
KẾT LUẬN
Hình thức của di chúc là một trong những
điều kiện có hiệu lực của di chúc. Việc quy định một cách chặt chẽ về hình thức
và thủ tục lập di chúc không chỉ nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho các chủ
thể mà còn hướng tới việc tạo ra tính xác thực cho những di chúc đã lập, qua đó
tạo ra cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích cho các chủ thể trong lĩnh vực
thừa kế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo
trình Luật dân sự Việt Nam ,
tập I, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009;
2. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình
Luật dân sự Việt Nam ,
tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009;
3. Phùng Trung tập, Luật thừa kế Việt
Nam ,
Nxb. Hà Nội, 2008;
4. Phan văn Tuyết, Thừa kế - Quy định
của pháp luật và thực tiễn áp dụng, Nxb. CTQG, Hà Nội 2007.
5. Bộ Luật dân sự năm 2005;
6. Website: http: //www.thongtinphapluatdansu.wordpress.com
M ỤC L ỤC
Tiêu mục
|
Trang
|
Lời mở đầu…………………………………………………………….
|
1
|
Nội dung……………………………………………………………….
|
1
|
I. Khái niệm, đặc điểm của di chúc……………………………………
|
1
|
1. Khái niệm…………………………………………………………...
|
1
|
2. Đặc điểm của di chúc………………………………………………..
|
2
|
II. Một số vấn đề về hình thức của di chúc…………………………….
|
4
|
1. Di chúc bằng văn bản……………………………………………….
|
5
|
1.1 Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng………………...
|
7
|
1.2 Di chúc bằng văn bản có người làm chứng………………………..
|
9
|
1.3 Di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực…………...
|
9
|
1.4 Di chúc bằng văn bản được lập trong những trường hợp đặc
biệt (di chúc có giá tị như di chúc có công chứng hoặc chứng thực)………
|
10
|
2. Di chúc miệng………………………………………………………
|
13
|
2.1 về thời hạn của di chúc miệng……………………………………..
|
13
|
2.2 Về hiệu lực của di chúc miệng…………………………………….
|
14
|
3. Hình thức của di chúc trái với quy định của pháp luật và
hậu quả pháp lý của nó……………………………………………………….....
|
15
|
Kết luận………………………………………………………………...
|
16
|
Tài liệu tham khảo……………………………………………………..
|
17
|
PHỤ LỤC
Mẫu di chúc
|
Độc lập -
Tự do - Hạnh phúc
DI CHÚC
Tôi là (1):
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Trong trạng
thái tinh thần minh mẫn, sáng suốt, tôi lập di chúc này như sau (6):
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
Người lập di chúc
(Ký và ghi rõ họ tên)
LỜI CHỨNG CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN
Ngày.........tháng...........năm..............
(bằng chữ ...........................................)
tại
.......................................................................................................................(9),
tôi.......................................,
Công chứng viên, Phòng Công chứng số..................
tỉnh/thành phố
....................................
CÔNG CHỨNG:
- Ông/bà ......................…………............
đã tự nguyện lập di chúc này;
- Theo sự
nhận biết của tôi, tại thời điểm công chứng, ông/bà có đầy đủ năng lực hành vi
dân sự phù hợp theo quy định của pháp luật;
- Nội dung di chúc không vi phạm
điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
- .......................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................................(10)
- Di chúc này được làm thành
.......... bản chính (mỗi bản chính gồm ....... tờ, ........ trang), giao cho
người lập di chúc ........... bản chính;
lưu tại Phòng Công chứng một bản chính.
Số
công chứng .........., quyển số ..........TP/CC-SCC/HĐGD.
CÔNG CHỨNG VIÊN
(Ký, đóng dấu và ghi rõ họ tên)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét